Tháng 10 năm 2003 tôi về Hà Nội để làm lễ
Cửu Tuần Đại Thọ cho mẹ tôi. Tới Hà Nội đêm hôm trước, thì sáng sớm hôm
sau tôi lên đường đi Thanh Hoá để gặp cô Phương. Tôi mời mẹ tôi cùng đi
Sầm Sơn để ôn lại các kỷ niệm xưa. Trên đường đi Thanh Hoá, tôi ghé vào
em Bùi Duy Tuấn nhằm cầu xin cha tôi (mất năm 1990 tại Sài Gòn) về điện
cô Phương, cầu Hàm Rồng để các con và mẹ được gặp cha. Chúng tôi không
dám nói với mẹ mục đích của chuyến đi vì mẹ tôi sùng Đạo Chúa (Tin
Lành), không chấp nhận những chuyện “ma quỷ” như vậy.
Khi
đến nơi, hai anh em tôi thấy quang cảnh đúng như trong bài báo của Bác
sĩ Nguyễn Lưu Viên : Khoảng 30-40 người ngồi im lặng, nghiêm chỉnh, có
vẻ lo âu chờ đợi trước một cánh cửa đóng kín. Một người đàn bà (sau này
tôi biết là chị chồng cô Phương) dáng mập ngồi chắn trước cửa, thỉnh
thoảng hô lên “Nhà ai có vong tên … thì vào”. Thế là vài ba người hay
dăm bảy người mừng rỡ hấp tập đi vào…
Chúng tôi mời mẹ vào ăn sáng tại một nhà
nghỉ khá lớn ở ngay trước điện cô Phương (nhà nghỉ này của nhà chồng cô
Phương tiếp khách ở xa đến phải chờ đợi vong nhà mình có khi tới ba
ngày, cả tuần lễ hay đôi khi thiếu may mắn không gặp được vong, đành
phải ra về tay không). Hai anh em tôi lén đi thắp nhang trước điện để
cầu khẩn cha tôi về theo thủ tục như mọi người. Thỉnh thoảng cửa hé mở
để dăm ba người đi ra. Người thì tỏ ra hớn hở. Người thì nước mắt sụt
Sùi.
Tôi sốt ruột đi hỏi xem có phải đăng ký
hay làm thủ tục gì nữa không, thì mọi người đều xác nhận không phải làm
gì cả, mà cứ kiên nhẫn ngồi chờ. Khi vong nhà mình về thì người ta gọi
vào.
Tôi thắc mắc là tôi chưa khai tên của cha tôi thì ai biết mà gọi. Mọi người cười, chế nhào tôi là hỏi thật ngớ ngẩn !
Chúng tôi chờ từ 10 giờ sáng đến ba giờ
chiều thì người đàn bà ngồi trước cửa đứng lên nói to : “Cô Phương nghỉ
làm. Xin mời quý vị ngày mai trở lại”. Thế là anh em tôi ngao ngan cùng
với vài ba chức người đứng dậy ra về.
Chúng tôi đưa mẹ ra Sầm Sơn nghỉ ngơi và
thăm lại cảnh xưa chốn cũ. Thật cảm động khi trở về nơi mà tôi đã sống
những ngày thơ ấu cách đây hơn nửa thế kỷ (gần 60 năm).
Sáng
hôm sau chúng tôi trở lại điện cô Phương. Lần này chúng tôi phải thú
thật với mẹ chuyện hai anh em đang làm. Mẹ tôi giãy n ảy lên : “Đến chỗ
ma quỷ ! Tao không vào đâu !”. Chúng tôi lại đành phải mời mẹ ngồi ăn
sáng ở nhà nghỉ như ngày hôm trước.
Lần này tôi sốt ruột lắm rồi. Tôi đi ra
đi vào, hỏi chuyện người này người nọ. Tôi gặp bố mẹ chồng cô Phương.
Ông Nghinh (bố chồng) mời tôi uống nước, đang kể chuyện cô Phương thì
bỗng nghe có tiếng gọi : “Bà Tỉnh đâu, người nhà ông Tỉnh đâu ?” (Cha
tôi tên là Bùi Văn Tĩnh, nhưng vì nói giọng Thanh Hoá nên nghe gọi tên
là Tỉnh). Phải gọi đến vài ba lần thì anh em tôi mới biết là gọi mình.
Tôi chạy tới cánh cửa. Em Tuấn chạy ra hối hả gọi mẹ : “Mo ơi, Cậu về
gọi mo đấy !”. Mẹ tôi hốt hoảng em tôi đứng bật dậy chạy theo, quên mất
lập trường chống ma quỷ của mình.
Qua cánh cửa, chúng tôi bước vào một căn
phòng khá rộng rải, trống rỗng. Ngoài cái được trên tường để trái cây và
các phong bì (chắc là tiền thưởng), thì không hay có bàn thờ trang trí
gì khác của một cái am, cái điện. Cô Phương ăn mặc diêm dua như các cô
gái Hà Nội, mặt hoa da phấn, đang ngồi tỉnh táo trên chiếu cùng với một
gia đình đông người trên chức. Cô cất tiếng: “Gọi mãi mà các bác không
vào, nên vong nhà khác tranh vào trước. Thôi, các bác vui lòng ngồi chờ
nhé! “.
Thế
cũng tốt, chúng tôi có dịp được quan sát thêm. Cô Phương gọi tên hết
người này đến người nọ trong gia đình ngồi chung quanh cô. Khi gọi trúng
tên ai thưa thì giơ tay : “Dạ, con đây (đây em hay, cháu đây …)”. Và
người đó nói chuyện với vong (qua miệng cô Phương). Tôi nghe thấy đa số
trả lời : “Dạ, đúng vậy …” có vẻ cung kính lắm.
Có một chuyện cười ra nước mắt. Vong gọi :
“Thằng Thanh đâu ?”. Một thanh niên chừng 25 tuổi đứng bật dậy : “Dạ,
con đây !”. Vong nói : “Mày không biết thương vợ con. Mày tằng tiu với
con Mai ở cùng cơ quan”. Chàng thanh niên sợ hãi líu ríu nhận tội. Người
phụ nữ ngồi cạnh (chắc là vợ) oà lên khóc nức nở. Sau gần một giờ, gia
đình đó mới kéo nhau ra.
Bỗng cô Phương nhìn chấm chấm vào mẹ tôi
để rồi kêu lên : “Mo ơi! Côn Cửa mở đây ! Thắng đây ! (Thắng là đứa em
út của chúng tôi, mất lúc chưa đầy một tuổi.) Mẹ tôi vừa xúc động vừa
ngạc nhiên: “Trời ơi ! Con tôi … Nhưng con mất khi mới được tám tháng… …
“.
Vong nói qua miệng cô Phương : “Bây giờ
con lớn rồi. Hôm qua con biết Mo và hai anh đến, nhưng con phải đi mời
Cậu. Cậu không chịu về. Con phải nói : Mo già yếu, còn anh Tâm ở xa về
nên Cậu mới chịu. Cậu và Ông Nội cũng về với con đây “.
Rồi quay sang phía hai anh em tôi, cô
Phương nói : “Hai anh chẳng nhớ gì đến em. Hai anh chỉ nhớ Cậu thôi !”.
Đúng vậy! Chúng tôi đâu có nghĩ đến thằng em út đã mất từ lúc tám tháng.
Thật bất ngờ cho chúng tôi.
Quay trở lại mẹ tôi, cô Phương nói : “Con
thích tên là Bùi Duy Thắng như các anh con là Bùi Duy Tâm, Bùi Duy
Tuấn. Mo sao lại đặt tên con là Bùi Tất Thắng ? “.
Mẹ
tôi luống cuống : “Tại bố con đấy ! Hồi đó mới giải phóng Hà Nội sau
chiến thắng Điện Biên Phủ, nên bố con cao hứng, đã đặt tên con là Tất
Thắng “. (Hồi đó cả nhà trách bố tôi vì đặt tên thằng út là Tất Thắng
Tất còn có nghĩa là hết, tức là chết. Nên nó mới mất sớm.. Nhân tiện tôi
nói thêm là việc đặt tên rất quan trọng, còn quan trọng như thế nào thì
tôi không biết Nhưng tôi. có biết ông Đỗ Trí ở Sơn Tây có tài chỉ cần
đọc tên là ông ấy biết con người như thế nào, như xem chỉ tay hay số tử
vi vậy.)
Vong em tôi nói tiếp qua cô Phương :
“Thôi, Mo đã khắc tên trên bia mộ con rồi !”. Đúng thế. Tên em tôi đã
được khắc trên bia mộ, nằm cạnh ông bà ngoại tôi trong nghĩa trang Bất
Bát.
Đến lượt bố tôi vào. Vong bố tôi qua thân
xác cô Phương nắm tay mẹ tôi, rồi nói : “Hơn mười năm rồi mới gặp lại
bà. Tôi nhớ bà lắm … “. Mẹ tôi khóc nức nở. Chúng tôi cũng khóc. Bố tôi
bỗng trách đùa mẹ tôi : “Bà diện lắm ! Mới đi có thể mà áo đỏ… “.
Trời ơi ! Sao bố tôi biết nhanh thế ?
Trong gia đình đã có ai biết chuyện tôi mua xấp vải nhung đỏ về VN may
áo cho mẹ tôi !? Tôi mới về Hà Nội tối hôm trước thì sáng hôm sau trên
đường đi Thanh Hóa ghé qua tiệm may, bỏ xấp vải nhung đỏ này để có áo
cho mẹ kịp mặc vào Lễ Đại Thọ. Mẹ tôi đương líu ríu chống chế thì bố tôi
bồi thêm một câu đùa yêu tiếp : “Bà còn muốn tô son đánh phấn nữa!”.
Mẹ tôi rên rỉ : “Cái gì ông cũng biết !
Đúng rồi ! Tôi vừa xin con cháu Trinh Hương, con gái anh Minh, một chút
son phấn để hôm Lễ Đại Thọ thoa một chút. Mặt mũi nhăn nheo quá, sợ
thằng con trai cả của ông nói với bạn bè “. (Chuyện này mẹ tôi giấu kín
mọi người, trong khi anh em tôi không hay biết gì, thế mà bố tôi cũng
biết !) “
Rồi
cô Phương quay sang tôi : “Tâm ơi! Cậu buồn quá vì chuyện con Hà nhà
con. Nó lôi thôi với chồng nó thì chỉ khổ cho ba đứa con thôi”. (Hà là
con gái tôi) Chuyện của nó mới xảy ra trước khi tôi về Hà Nội. Vợ chồng
tôi nghe phong phanh, nhưng chưa có dịp trao đổi với nhau. Thế mà mọi
chuyện người Âm đều biết, không giấu giếm được ! )
Một lúc sau thì ông nội tôi về. Qua miệng
cô Phương : “Tao là Bùi Văn Khánh, ông nội đây. Cả bà nội Nguyễn Thị
Ngọt cũng về đây! “.
Tôi vội thưa : “Thưa Ông, con nghe anh
Đại con cô Hai nói tên Ông là Khánh, nhưng lâu ngày trên giấy khai sinh
của Bố con mất dần dấu sắc, nên đọc là Khanh” (cô Hai là chị ruột bố
tôi. )
Ông nội tôi gắt lên: “Tên tao là Khánh, chứ không phải là Khanh”.
Rồi quay sang mạng mẹ tôi : “Chị về làm
dâu nhà tôi mà không đoái hoài mồ mả tổ tiên nhà chồng. Từ ngày cưới
chị, chị chỉ về quê nội có một lần ! Mẹ tôi sợ hãi chống chế : “Gia đình
con ở Hà Nội, Hải Phòng. Quê nội ở mãi Bái Đô, Lam Kinh – Thanh Hoá,
nên đi lại khó khăn. Và, con sinh con đẻ cái đều đều ba năm hai đứa nên
không về thăm quê được. Con xin nhận tội với ông bà “.
Cứ như thế trong 90 phút vui buồn, khóc lóc …
Hai
anh em tôi và mẹ hớn hở ra về. Có lẽ vì cao hứng nên chúng tôi ghé thăm
nhà thơ Hữu Loan, người bạn cũ ở Thanh Hoá. Đáng nhẽ thẳng về Hà Nội,
nhưng chắc còn luyến tiếc những giờ phút quý bầu xúc động buổi sáng đó
nên chúng tôi quay trở ngược lại cầu Hàm Rồng để chụp ảnh với cô Phương.
Kỳ này mẹ tôi không phản đối nữa mà còn hăm hở muốn gặp cô Phương.
Cô Phương vui vẻ cho biết thêm : “Cụ ông lại vừa về cho biết đã đăng ký chỗ dạy học cho bà rồi”.
Lại thêm một ngạc nhiên : Mẹ tôi vốn là
một giáo viên hồi hưu. Ngày xưa, mẹ tôi là người đàn bà Tây học. Khi lấy
chồng, sinh con thì ở nhà. Khi các con khôn lớn thì bà mới đi dạy lại
vì sự khuyến khích của bố tôi. Thôi, không còn nghi ngờ gì nữa. Đúng là
vong linh của bố tôi rồi! Lúc nào tôi cũng muốn bố mẹ tôi sử dụng cái
tri thức của mình.
Ngày hôm đó là ngày trọng đại của đời
tôi. Tôi thấy cụ thể sự hiện hữu của Linh hồn và cõi Âm. Dù cho sau này
cô Phương có nói bậy gì đi nữa, các cô gọi hồn khác, các nhà ngoại cảm
khác đôi khi có nói bậy vì mưu sinh thì kết quả của ngày hôm đó vẫn
không thể chơi cai được, nếu không nói là tuyệt đối được chấp nhận.
Khác nào như ta cố gắng gọi điện thoại
cho người thân, đường dây rất khó khăn, rất xấu, nhưng chỉ một lần thôi
ta nghe rõ tiếng người thân trò chuyện với ta về những chuyện gia đình
mà người ngoài không thể biết được, thì cũng khá đủ cho ta biết rằng
người thân của ta vẫn tồn tại. Tuy ta không nhìn thấy được vì giới hạn
của ngũ quan, nhưng người thân quá cố của ta vẫn tồn tại với các ký ức,
với các kỷ niệm dưới một dạng nào đó mà ta biết không, ta tạm gọi là
“Linh hồn” , trong một thế giới nào đó mà ta cũng biết không, tạm gọi là
“cõi âm” (để phân biệt với cõi Dương mà ta đang sống) hay theo kiểu Tây
Phương gọi là “Cuộc đời sau khi chết” (“Cuộc sống sau deth “).
Sau
này mỗi lần về thăm quê hương, tôi đều đưa mẹ tới gặp cô Phương. Lần
sau cùng mẹ tôi gặp cô ấy là cuối năm 2005. Khi đó mẹ tôi vẫn còn khoẻ
mạnh, nhanh nhẹn. Trước khi ra về, cô Phương nói nhỏ với tôi : “Cụ ông
nhớ bà lắm. Cụ ông sắp đưa bà về rồi một cách bình yên”. Ít lâu sau, mẹ
tôi mất rất nhanh.
Sau này tôi có gặp nhiều nhà ngoại cảm
khác ở Việt Nam, họ cũng có khả năng như cô Phương – cô Bằng, cô Thảo,
cô Mến trên đường từ Hà Nội qua Hải Dương đến Hải Phòng. Tôi cũng đã gặp
các nhà ngoại cảm tìm mộ như Cậu Liên, anh Nguyễn Khắc Bảy, cô Phan Thị
Bích Hằng … Tôi cũng đã gặp các nhà khoa học nghiên cứu về tâm linh như
TS Nguyễn Chu Phác, GS Ngô Đạt Tam, GS Phi Phi, TS Ngô Kiều Oanh … làm
việc ở các cơ quan khác nhau.
Tôi đã được đọc câu kết luận của một tài
liệu ở Việt Nam (không phổ biến công khai) như sau : “Thế giới tâm linh
là có thật. Đó là một thực tế khách quan cần được các nhà khoa học
nghiên cứu nghiêm túc. Chúng ta hãy bình tĩnh, khách quan lắng nghe
những lời nhắn như từ thế giới tâm linh để có cuộc sống nhân ái hơn,
lương thiện hơn “.
Trích bài viết của GS TS Bùi Duy Tâm (sống tại Francisco, CA 94122, USA).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét