Quả thật, đây là vấn đề nhạy cảm và xa lạ đối với hầu hết tín đồ Phật giáo trên thế giới ngoài một bộ phận Mật tông...
Gần
đây, cộng đồng cư dân mạng xôn xao về hình tượng “người nữ ôm trong lòng
Phật”. Quả thật, đây là vấn đề nhạy cảm và xa lạ đối với hầu hết tín đồ
Phật giáo trên thế giới ngoài một bộ phận Mật tông; sở dĩ gọi là một bộ
phận, vì không hẳn toàn bộ Mật pháp đều sử dụng biểu tượng như thế.
Có sự tương thông trong các pháp hành
Du già, đạo học, Tiên thiên hợp lưu, Thủy hỏa ký tế, âm dương bảo hòa,
Châu Thiên tiểu-đại…của Đông Phương, cũng như một vài Mật pháp của Ấn
giáo, Ba Tư và Ai Cập cổ đại.
Riêng những biểu tượng trên, xuất hiện
rất sớm trong nền triết lý Ấn giáo, một triết lý chuyển hóa hành giả
bằng những biểu tượng cụ thể, có trước thời kỳ Phật giáo xuất hiện;
chúng nằm vùng Bắc Ấn, vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên; các
hành giả ẩn cư trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, tại Trung Hoa, Lão Trang và các
Đạo gia cũng xuất hiện lý thuyết Âm-Dương ngũ hành áp dụng vào tu luyện,
đạo học, y học, võ thuật, kinh dịch, bói toán, địa lý… Do Ấn giáo nặng
về tín ngưỡng đa Thần nên lý thuyết Âm Dương, sáng tạo và hủy diệt, trí
tuệ và vô minh chuyển hóa thành những biểu tượng cụ thể.
Vì vậy, Ấn Độ có thần Shiva, Nữ thần
Nataraja được coi như là hóa thân của thần Shiva, thần Vishnu, thần Thấp
Ti Nô, thần Na La Diên Na, thần Thấp Bà là Linga, biểu tượng dương vật,
thần Shesha là vua của loài rắn. Brahma còn là một sự nhân hóa của Đại
ngã. nó được dùng để chỉ quyền năng được gọi là "Tuyệt đối" đằng sau mọi
sự sáng tạo. Trong ý nghĩa triết học, Brahma biểu thị khuynh hướng vận
động điều hòa (rajas), tạo nên thế quân bình giữa hai khuynh hướng quy
tâm (sattva) và ly tâm (tamas), giữa bảo tồn và hủy diệt mà thần Vishnu
và Shiva là biểu hiện… Mọi hiện tượng trong thiên nhiên được Thần hóa
biểu tượng, vì thế, tại Ấn Độ có quá nhiều tôn giáo tín ngưỡng mang
nhiều màu sắc. Cho dù màu sắc nào, tín ngưỡng nào, cũng không ngoài lý
thuyết cơ bản Sáng tạo, hủy diệt và bảo hòa mà đạo học gọi là Âm-dương
và quân bình.
Sau 6 thế kỷ đức Phật nhập diệt, một
số bộ phái ra đời, Nam Ấn giữ được nguyên tính truyền thừa, Bắc Ấn, vài
bộ phái chịu ảnh hưởng Yoga trong triết thuyết và hành trì, chính vì thế
Mật pháp của một bộ phận Bà La Môn thâm nhập vào hành giả ẩn cư, lập ra
Mật tông, dung hóa giữa giải thoát của Phật giáo và triết thuyết hiện
tượng của Bà La Môn.
Những biểu tượng Thần giao hợp đã xuất
hiện rất sớm, mà theo truyền thuyết, thần Brahma cũng từng vi phạm loạn
luân, trong bộ ba Brahma – Shiva – Visnhu đã kết hợp thành một học
thuyết giềng mối giữ thế tồn tại cho Bà la môn (Tam vị nhất thể). Theo
Ấn Giáo, vấn đề âm – dương giao thoa là việc tất yếu của mọi sinh vật,
khác chăng là các đạo sĩ nâng chúng lên một giá trị triết học.
Khi những biểu tượng tất yếu thâm nhập
vào một bộ phận hành giả Mật pháp của Tăng sĩ Phật giáo, các ngài dung
hóa lý thuyết giải thoát và biểu tượng trên căn bản đối diện sự thật.
Khác với chủ trương Nam truyền, “Ly dục, ly ác pháp” các Tổ Mật pháp xem
“thế gian pháp tức Phật pháp”. Mọi hiện tướng, bản thân chúng không tốt
xấu, do tâm dục mà chúng biến thành xấu và với tâm thanh tịnh chúng là
phương tiện đạt đến diệt dục. Trong các bộ phái và pháp hành Phật giáo
Bắc truyền, phải nói Mật tông nói chung và Kim Cang Thừa nói riêng, đòi
hỏi hành giả một nghị lực phi thường để vượt qua những cảnh đời thường,
đó là đi trực tiếp, giải thoát nhanh nhất để chuyển hóa tâm thức.
Hầu hết các pháp hành đều khuyên hành
giả trốn chạy, tránh xa các lạc thú nhạy cảm, nhưng xét cho cùng, đó chỉ
là lấy đá đè cỏ, những chủng tử bất thiện trong tiềm thức vẫn đang ấp ủ
chờ cơ hội bùng phát. Hưởng thụ dục lạc nằm trong hai trạng huống, hoặc
hưởng thụ với tâm ô nhiễm hoặc hưởng thụ bằng sự tỉnh giác để chuyển
hóa tâm nhiễm ô. Và nhất là những hành giả giải thoát, cần đối diện
thực tại để chuyển hóa tâm thức nhiễm ô. “Phật pháp tại thế gian, bất ly
thế gian giác…” vì thế, bất cứ những gì có mặt trong cuộc sống, từ
chiếc lá rơi đến sinh hoạt tâm sinh lý, từ hiện tượng thiên nhiên đến
bản năng sinh tồn của động vật, chúng đều là những công án để hành giả
hóa giải những mắc mứu trong tâm thức.
Một tu sĩ từ bé được thầy cho sống ở
núi, khi trưởng thành, xuống phố nhìn cái gì cũng lạ, cái lạ nhất là các
cô gái mà mình chưa gặp bao giờ, về lại núi, tu sĩ trẻ thẫn thờ giao
động mãi, thầy biết được chủng tử vô mình trong tâm thức người đệ tử
trỗi dậy, thầy đem một bức tranh phụ nữ kiều diễm dán trên tường, hướng
dẫn đệ tử quán chiếu tất cả mọi ngõ ngách mà người đệ tử bị thu hút; một
thời gian sau, người đệ tử hiểu rằng, cái mà thu hút chàng không phải
là sắc đẹp của phụ nữ mà là sắc dục ẩn tàng trong tâm thức có dịp bộc
phát.
Cũng thế, tất cả pháp tướng thế gian
dù đẹp hay xấu, không phải là nguyên nhân làm cho ta sa đọa mà chính ta
đã làm cho những pháp thế gian sa đọa xấu xa hơn. Vì thế, tu tập là sự
chuyển hóa tâm thức chứ không phải ức chế tâm thức trước thực tại.
Trong một số Kinh điển ngoại giáo có
trước thời đức Phật, ngoài hình ảnh, còn hướng dẫn rất kỷ về thao tác
làm tình để nâng cao sự khoái lạc thể xác, biến cảm xúc lên tầng số giao
cảm thánh thiện thoát tục, đó là những mật pháp dành riêng cho những
hành giả Yogi có một năng lực tinh thần tuyệt hảo. Bởi vì, theo lý
thuyết, trong mỗi sinh động vật đều hàm tàng hai nguồn năng lượng âm
dương, do thiếu quân bình đem đến bệnh hoạn, sa đọa…luôn cảm thấy thiếu
nên chạy tìm để hưởng thụ và đánh mất sự sáng suốt.
Trên bình diện cảm xúc trần tục, chúng
ta xấu hổ trước những hình ảnh giao hoan như thế, thực ra “chư Thần
giao hợp” là một vũ điệu hợp nhất năng lượng âm-dương trong mỗi con
người cũng như vũ trụ. Các hành giả Yogi, đó là một pháp hành tối thượng
phát sinh đại lạc vi tế nhất của mật pháp, hoàn toàn không tùy thuộc
vào đam mê cảm xúc của giác quan mà “nam thần“ biểu thị cho đại lạc và
“nữ thần” là biểu tượng của đại trí; Trí lạc viên dung là sự toàn vẹn
tột đỉnh của một thành tựu giả.
Trước hình tượng xuất hiện khắp các tu
viện tại Bắc Ấn tu mật pháp này, giúp hành giả cảm nhận được sự quân
bình âm dương trong nguồn sinh lực cơ thể, vì các hành giả đã vượt khỏi
tâm phân biệt nhị nguyên. Một hành giả bước vào mật pháp hoan lạc này
phải chọn 1 trong 4 giai đoạn của mật điển:
Mật điển thiên về hành động, mật điển
thiên về tư duy, mật điển du già và tối thượng du già. [1] Mỗi hạng dành
cho một loại hành giả đặc biệt, trước khi chọn một trong bốn mật pháp
để thực hành theo từng căn cơ, hành giả cần trải qua 4 giai đoạn tối cần
của mật pháp: Thứ nhất là pháp Du già tịnh hóa triệt để môi trường
chung quanh; thứ hai là pháp Du già tịnh hóa triệt để thân xác; thứ ba
là tịnh hóa triệt để mọi cảm thọ; thứ tư là pháp Du già tịnh hóa triệt
để mọi hành vi.[2]
Như thế một hành giả Yogi không thể là
kẻ lạm dụng của sự lạc dục. Ham muốn là bản năng tiềm ẩn của động vật,
chuyển hóa năng lượng ham muốn như thế nào để năng lượng ham muốn biến
thành năng lượng tuệ giác là một vấn đề mà hành giả cân nhắc rất kỹ. Thế
tục do không thỏa mãn những ham muốn sinh ra tha hóa, khổ đau, điên
loạn, thực tế ham muốn là một năng lượng thiếu quân bình, nếu không có
pháp hành thì con người không bao giờ bù đắp được sự thiếu hụt đó, luôn
quay cuồng tìm kiếm trong đau khổ.
Các mật pháp cung cấp cho hành giả một
pháp hành với một ý thức rõ ràng, tự bù đắp và chuyển hóa những thực
tại trong chính ta chứ không phải từ ngoại cảnh. Thực hành Mật pháp là
hợp nhất kinh nghiệm lạc thú với ánh sáng tâm linh; cũng như khi nam nữ
giao hoan, ánh sáng chợt lóe trong lúc cực khoái từ đó, thần thức cõi
trung giới có duyên theo đó nhập thai. Cái lạc thú và ánh sáng của hành
giả trong lúc luyện đạo là một thăng tiến nội lực lúc bảo hòa năng lượng
âm dương nội tại, từ đây, đưa hành giả đến sự thành tựu giải thoát hoàn
toàn.
Trước khi có hình tượng "cô gái ngồi
trong lòng Phật" thì cũng đã có nhiều tranh tượng của Ấn Độ miêu tả giao
hoan nam nữ trước nhiều thế kỷ. Chỉ vào thế kỷ thứ VI khi Kim Cang thừa
chịu ảnh hưởng giữa Phật và Ấn giáo thì pháp hành pha trộn giữa hai
giáo lý, thiên nặng về Mật giáo được truyền bởi một chân sư nghiêm mật,
nên ít phổ biến, vì thế vẫn giữ được mạng mạch không gián đoạn. Đặc
trưng Mật pháp chú trọng đến cực quang và hoan lạc pháp để thăng hoa tâm
thức mà Duy thức gọi là “Bạch tịnh thức” lúc ấy thức biến thành Trí,
Trí tuệ siêu việt khai mở.
Những hình tượng xuất hiện trên mạng
gần đây, do chưa hiểu giá trị tuyệt đỉnh của pháp hành, nên quần chúng
phẫn nộ, xem như một điều bất kính với đức Phật, nhưng thực tế, nhìn sâu
hơn, điều đó đã tăng giá trị điềm nhiên giải thoát và hoan lạc của bậc
giác ngộ trước một đối tượng mà Ấn giáo gọi là mẹ Vũ trụ giao hòa, Mật
thừa xem là sự quân bình năng lượng chân và tục, trí tuệ và giải thoát
một cách bản nhiên.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét