Một trong những yếu tố khiến con người của thế giới văn minh đương thời
quan tâm đến Phật giáo là đặc tính nhân bản của Đức Phật.
Trên bình diện lịch sử, phần lớn giáo
chủ các tôn giáo trên thế giới đều là thượng đế, đấng sáng thế, thánh
thần, hoặc là nhân vật thần bí được mặc khải xuống trần gian để thế
thiên hành đạo. Những nhân cách như thế có lẽ khó có sự đồng cảm với thế
thái nhân tình của con người trong cuộc sống đời thường. Bởi lẽ, ai đã
từng khổ đau vì đổ vỡ hạnh phúc, tuyệt vọng vì thất bại trong cuộc sống
mới cảm nhận được giá trị của niềm khích lệ, chia sẻ và cảm thông. Một
nụ cười, một lời động viên, một sự an ủi trong những tình huống như thế
sẽ là chiếc phao cứu sinh giữa biển đời đau khổ. Nói theo ngôn ngữ của
đại thi hào Nguyễn Du “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Không ai cảm
nhận một cách sâu sắc nỗi đau sanh lão bệnh tử, ái biệt ly khổ, cầu bất
đắc khổ… của con người bằng chính con người! Không ai thấu hiểu được
hạnh phúc lớn lao của người mẹ khi thấy đứa con chính mình sinh ra lớn
khôn từng ngày bằng chính những bà mẹ. Nói khác đi, chỉ có con người mới
biết con người nghĩ gì, thích gì, khát khao điều gì…! Chỉ có con người
mới cảm nghiệm được hạnh phúc cũng như nỗi đau về thân xác cũng như tinh
thần của con người! Lý tưởng sống của tôn giáo nào giải quyết được yêu
cầu trên chắc chắn sẽ được con người chấp nhận. Vì lẽ, khi được cảm
thông và chia sẻ người ta dễ dàng lắng nghe nghệ thuật sống đưa đến sự
an bình của nội tại ấy.
Giáo chủ của đạo Phật là một con người
lịch sử! Ngài tên là Sirdattha (Tất-đạt-đa), con vua Suddodhana (Tịnh
Phạn) và hoàng hậu Maya của nước Sakya (Thích-ca) thuộc đất nước Nepal
ngày nay. Trước khi trở thành Phật, bậc giác ngộ được nhân loại tôn kính
và quy ngưỡng, thái tử Sirdattha cũng sinh ra và lớn lên như mọi con
người. Thái tử đã trải nghiệm tất cả những hương vị mặn, ngọt, chua,
cay của cuộc đời; những cung bậc hỷ, nộ, ái, ố và được, mất, thịnh, suy
của kiếp người. Từ đó, Ngài thấu hiểu được tâm trạng con người và cảm
nhận được giá trị thật của kiếp người. Ngài biết cần phải hành xử như
thế nào để giúp đồng loại trong từng tình huống cụ thể. Vì vậy, dù được
thế giới kính ngưỡng, tôn xưng là Thế Tôn, bậc thầy của trời người sau
khi tìm ra con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân, Đức Phật vẫn
luôn ứng dụng tinh thần khế cơ khế lý trong cuộc đời hành đạo của Ngài.
Chính tinh thần tùy bệnh cho thuốc, tùy căn cơ thuyết pháp đã giúp được
nhiều người ra khỏi những nỗi khổ của tự thân và có được nhân duyên tiếp
xúc với đạo Phật.
Kinh Tương ưng ghi lại rằng sau khi
trực tiếp nghe pháp và tu tập dưới sự giảng dạy của Đức Phật, Bà-la-môn
nữ Bhannanjani thật sự kính ngưỡng Ngài và thường ca ngợi Ngài trong các
hội chúng Bà-la-môn. Việc làm ấy đã khiến cho một bậc trí giả ngoại
đạo là Bà-la-môn Bhadavada ganh tỵ, tức tối. Bhadavada mắng nhiếc bà
Bhannanjani là ti tiện, ngu dốt vì buông lời tán thán lão Sa-môn đầu
trọc Gotama (Cù-đàm) và tuyên bố sẽ luận phá đạo sư của bà. Để thỏa mãn
cơn bực tức ấy, Bà-la-môn Bhadavada đến gặp Đức Phật và vặn hỏi Ngài
rằng: “Giết vật gì được lạc, giết vật gì không sầu. Có chăng một pháp
gì, Ngài tán đồng giết hại! Thưa Tôn giả Gotama”1. Thay vì
phải đón nhận sự phản hồi tiêu cực theo cách thường tình của một người
bị đụng chạm tự ái, xúc phạm tự ngã, Bà-la-môn Bhadavada lại được Đức
Phật vui vẻ trả lời: “Giết phẫn nộ được lạc, giết phẫn nộ không sầu!
Pháp ấy bậc hiền thánh, tán đồng sự giết hại; giết pháp ấy không sầu”2.
Cung cách truyền giáo đầy trí tuệ và hòa nhã ấy đã khiến Bà-la-môn ngạc
nhiên, thán phục, khởi lòng ngưỡng mộ và phát tâm xin làm đệ tử tại gia
của Đức Phật. Có lẽ đây là đức hạnh cần thiết mà những người mang trọng
trách truyền bá tôn giáo trong bối cảnh xã hội hiện nay cần phải nghĩ
đến. Đặc biệt, trong một xã hội đang tràn ngập sự thù hận, lòng ganh
ghét, đố kỵ, hơn thua vì địa vị, danh tiếng và quyền lợi thì những phẩm
chất tôn giáo mang đậm tính nhân văn lại cần thiết hơn bao giờ hết. Thế
giới con người đang quằn quại trong chiến tranh, giết chóc, đấu đá, trả
thù… bởi chính sự ích kỷ, lòng tham lam, tính tự cao, tự đại, chấp thủ,
định kiến của con người. Vì thế, lòng khoan dung, độ lượng, vị tha, nhân
ái là chất liệu vô cùng cần thiết, có khả năng tạo nên một môi trường
sống hòa bình, hữu nghị và thân thiện mà nhân loại đang hướng đến. Cách
hành xử của Đức Phật được ghi lại trong Kinh tạng Pali3 có thể xem là bài học tiêu biểu để chúng ta suy nghiệm.
Với động cơ mong muốn đả bại Đức Phật
để làm rạng danh tôn giáo mình (đạo Lõa thể), gia chủ Ưu-ba-li, người đệ
tử tại gia trí thức và giàu có nhất của Nigantha Nataputta, đi đến luận
chiến với Đức Phật về chủ đề triết lý nghiệp. Sau cuộc luận đàm đầy gay
cấn và thú vị, cuối cùng gia chủ Ưu-ba-li thật sự tâm phục, khẩu phục
trí tuệ siêu việt và khả năng biện tài vô ngại của Đức Phật. Sau đó,
Ưu-ba-li phát nguyện quy y Tam bảo và mong Đức Phật nhận ông làm đệ tử
cư sĩ. Thay vì hoan hỷ và phấn khích khi được một bậc trí giả, một người
giàu có mong muốn được làm học trò mình, Đức Phật lại ân cần khuyên bảo
Ưu-ba-li: “Này gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt
đẹp với những người trứ danh như ông”. Cách hành xử một cách thận trọng
và nhân ái của một giáo chủ tôn giáo với người ngoại đạo đã khiến
Ưu-ba-li vô cùng kinh ngạc và kính phục và phát biểu rằng: “Bạch Thế
Tôn, con càng bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn
nói với con ‘Này gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt
đẹp với những người trứ danh như ông’ - Bạch Thế Tôn, nếu các ngoại đạo
được con làm đệ tử, họ sẽ trương cờ lên và tuyên bố: ‘Gia chủ Ưu-ba-li
đã trở thành đệ tử của chúng tôi. Nhưng Thế Tôn lại nói với con: ‘Này
gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những
người trứ danh như ông”4.
Tuy nhiên, thái độ đầy lòng nhân ái và
vị tha của Thế Tôn mới thật sự làm cho Ưu-ba-li xúc động và nhận ra
được giá trị tâm linh chân thật của một bậc giải thoát, người đã hoàn
toàn vượt lên những danh vọng, lợi dưỡng của cuộc đời. “Này gia chủ, đã
từ lâu gia đình ông như là giếng nước, mưa nguồn cho các người Nigantha.
Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với ông”. Lời dạy này hoàn
toàn trái ngược với những gì Ưu-ba-li được nghe trước đó “Sa-môn Gotama
đã nói: Chỉ bố thí cho Ta, chớ bố thí cho các người khác. Chỉ bố thí cho
đệ tử Ta, chớ bố thí cho những người khác. Chỉ bố thí cho Ta mới có
phước đức lớn… Nhưng Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho các vị
Nigantha”5.
Thái độ hành xử trên của Đức Phật có
lẽ là phẩm chất tôn giáo mà thế giới thời nay đang tìm kiếm để giải
quyết những sự xung đột mang nặng màu sắc cực đoan, định kiến về tín
ngưỡng, tôn giáo và chủ nghĩa. Khi được học tập và ứng dụng một triết
lý sống mang tinh thần vị tha, độ lượng nhưng đầy trí tuệ, giải thoát
vào trong chính cuộc sống của họ, người ta sẽ rất tỉnh táo và sáng suốt
trong việc chọn lựa một tôn giáo để tôn thờ vì mục đích hạnh phúc và an
lạc cho mình và xã hội. Do vậy, mặc dầu bị người thầy cũ của mình tức
ngài Nigantha Nattaputta mắng nhiếc, chê trách là đã bị huyễn thuật của
Sa-môn Gotama chinh phục, lôi cuốn, cư sĩ Ưu-ba-li đã nói như sau: “Thưa
Tôn giả, vi diệu thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Tốt lành thay, huyễn
thuật lôi cuốn này! Thưa Tôn giả, nếu bà con huyết thống thân yêu của
tôi…, nếu tất cả Bà-la-môn…, Vessa…, Sudda…, chư thiên và loài người
được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật an lạc và hạnh phúc lâu dài cho
bà con huyết thống thân yêu của tôi, cho Bà-la-môn…, cho Vessa... cho
Sudda… cho chư thiên và loài người…”6.
Rõ ràng, những phát biểu của cư sĩ Ưu-ba-li xuất phát từ chính sự trải nghiệm được giá trị thật sự của một nhân cách sống vì lợi ích, an lạc và hạnh phúc của thế nhân, như lời dạy của Đức Phật khi nói đến giá trị và ý nghĩa về cuộc đời của Ngài: “Một người, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh phúc cho số đông, an lạc cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người. Một người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác…”7.
Chú thích:
1 Kinh Tương ưng bộ, tập 1.
2 Sđd.
3 Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trung bộ, tập 1.
4 Sđd.
5 Sđd.
6 Sđd.
7 Kinh Tăng chi bộ, tập 1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét