Tình cờ đi qua đường Phạm văn Hai, người viết bài này thấy
một cửa hàng bán oản bột. Một loại bánh làm từ bột nếp trộn nước cốt
đường mà từ cái tuổi thích chơi ô ăn quan, con trai thích đánh gụ (con
quay) hay được bà tôi mang oản lộc ở chùa về chia cho chị em tôi mỗi đứa
vài cái, oản hồi ấy có cái bé tẹo bằng hạt mít.
Rồi
chiến tranh, rồi đời sống văn hóa xã hội ngày một hiện đại, cái oản bột
“khi xưa ta bé” đã lùi lũi đi vào dĩ vãng. Giữa thời Sài Gòn hiện đại
hóa công nghiệp, lúc này thấy những phẩm oản bọc giấy bóng màu xanh đỏ,
hình ảnh xa xôi của trên nửa kỷ nguyên trước tái hiện khiến tôi phải
quành xe lại ngó cái oản xưa và mua một chục phẩm oản về cúng Tam bảo.
Cũng vì thế mà tôi nghĩ đến con đường của phẩm oản.
Nghề
làm oản khó làm giàu nhưng thanh tịnh và mang nhiều giá trị ý nghĩa
nhân văn. Với lứa tuổi 50 trở về trước, không ai là không biết đến oản
bột, một sản phẩm cúng thực lên chư Phật đã có mặt trong đời sống xã hội
Việt Nam từ rất lâu đời của văn minh sông Hồng và đã phát triển sâu
rộng đến chùa chiền, đền, đình, miếu, tự, từng làng, xã, từng gia đình,
từng người, phổ biến nhất là cố đô Thăng Long xưa. Phẩm oản có dáng hình
trụ như một cái tháp có chóp bằng, đơn sơ, nhỏ nhắn, hình tròn nhưng
không góc cạnh như không có giới hạn, không có điềm bắt đầu và không có
kết thúc như đức Phật đã nói. Có người lại cho rằng phẩm oản mang hình
cái chuông, với màu trắng tinh khiết, ẩn chứa sâu xa những triết lý về
tín ngưỡng. Mặc dù người xưa không được giảng giải về ý nghĩa hình dáng
của phẩm oản nhưng bất cứ ai lễ chùa, lễ đền, đình, miếu, thánh. thần
làng, hoặc cúng ông bà tổ tiên, trong mâm lễ cúng dường không thể thiếu
phẩm oản.
Từ hàng ngàn năm xưa, dân Việt đã tiếp nhận Phật giáo của người Ấn, Phật giáo đã nhanh chóng đi vào vào đời sống của nhân dân. Thời ấy, cách thờ cúng, kiến trúc xây chùa, hoa văn điêu khắc ảnh hưởng không ít của văn hóa Phật giáo Ấn Độ. Những tháp chùa như: Tháp Cửu phẩm Liên hoa ở chùa Giám (Hải Dương), tháp Phước Duyên ở chùa Thiên Mụ (Huế), Bảo tháp Lục độ Đài sen ở chùa Trấn Quốc (Hà Nội), các kiểu tháp thở tổ v v… đều thiết kế và xây dựng theo hình dáng các loại tháp ở Bồ đề đạo tràng (Bodhgaya) Ấn Độ, đây chính là nơi đức Phật thành đạo và được coi là cái rốn của vũ trụ Phật giáo nói chung.
Do
vậy, phẩm oản được tạo ước lệ từ hình dáng chính yếu của các tháp Phật
giáo, chuyển tải nhiều tầng ý nghĩa của con người với chư Phật. Theo
Phật giáo Tây Tạng thì tháp có sự liên kết với sinh – tử và tái sinh của
Phật giáo, là nơi tôn kính thờ phụng linh thiêng.
Xã
hội Việt Nam có nền văn hoá mang đậm bản sắc rất riêng được hình thành
sớm nhất trong khu vực Đông Nam Á. Cùng các làng nghề của kinh đô Hoa
Lư, Thăng Long, Thành Nam, Huế, Gia Định xưa v v… ra đời, sản xuất các
sản phẩm từ nông sản, thực phẩm, oản bột, oản sôi cũng được ra đời từ
đây và đồng hành với từng thời kỳ lịch sử nước Việt.
Thủa
vua Trung Tông (thế kỷ 15), khi vua mất. Một vị quan tên là Trịnh Kiểm
muốn chọn người tài lên làm vua nên đã nhờ Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng
Trình) “cố vấn”, Trạng Trình chẳng nói gì nhiều chỉ vỏn vẹn một câu:
“Giữ chùa thờ Phật thì… ăn oản”. Hiều ý câu nói đó là giữ đạo làm tôi,
Trịnh Kiểm liền tìm Lê Duy Bang là đời thứ 6 của nhà Lê lên lập vua –
tức là vua Lê Anh Tông. Nhờ lời tiên tri “Giữ chùa thờ Phật thì… ăn oản”
của Trạng Trình mà quân đội của Trịnh Kiểm đã nhiều lần đánh tan quân
Mạc.
Phẩm oản với văn hóa tâm linh lâu đời của người Việt
Rồi chiến tranh, rồi đời sống văn hóa xã hội ngày một hiện đại, cái oản bột “khi xưa ta bé” đã lùi lũi đi vào dĩ vãng. Giữa thời Sài Gòn hiện đại hóa công nghiệp, lúc này thấy những phẩm oản bọc giấy bóng màu xanh đỏ, hình ảnh xa xôi của trên nửa kỷ nguyên trước tái hiện khiến tôi phải quành xe lại ngó cái oản xưa và mua một chục phẩm oản về cúng Tam bảo. Cũng vì thế mà tôi nghĩ đến con đường của phẩm oản.
Nghề làm oản khó làm giàu nhưng thanh tịnh và mang nhiều giá trị ý nghĩa nhân văn. Với lứa tuổi 50 trở về trước, không ai là không biết đến oản bột, một sản phẩm cúng thực lên chư Phật đã có mặt trong đời sống xã hội Việt Nam từ rất lâu đời của văn minh sông Hồng và đã phát triển sâu rộng đến chùa chiền, đền, đình, miếu, tự, từng làng, xã, từng gia đình, từng người, phổ biến nhất là cố đô Thăng Long xưa. Phẩm oản có dáng hình trụ như một cái tháp có chóp bằng, đơn sơ, nhỏ nhắn, hình tròn nhưng không góc cạnh như không có giới hạn, không có điềm bắt đầu và không có kết thúc như đức Phật đã nói. Có người lại cho rằng phẩm oản mang hình cái chuông, với màu trắng tinh khiết, ẩn chứa sâu xa những triết lý về tín ngưỡng. Mặc dù người xưa không được giảng giải về ý nghĩa hình dáng của phẩm oản nhưng bất cứ ai lễ chùa, lễ đền, đình, miếu, thánh. thần làng, hoặc cúng ông bà tổ tiên, trong mâm lễ cúng dường không thể thiếu phẩm oản.
Từ
hàng ngàn năm xưa, dân Việt đã tiếp nhận Phật giáo của người Ấn, Phật
giáo đã nhanh chóng đi vào vào đời sống của nhân dân. Thời ấy, cách thờ
cúng, kiến trúc xây chùa, hoa văn điêu khắc ảnh hưởng không ít của văn
hóa Phật giáo Ấn Độ. Những tháp chùa như: Tháp Cửu phẩm Liên hoa ở chùa
Giám (Hải Dương), tháp Phước Duyên ở chùa Thiên Mụ (Huế), Bảo tháp Lục
độ Đài sen ở chùa Trấn Quốc (Hà Nội), các kiểu tháp thở tổ v v… đều
thiết kế và xây dựng theo hình dáng các loại tháp ở Bồ đề đạo tràng
(Bodhgaya) Ấn Độ, đây chính là nơi đức Phật thành đạo và được coi là cái
rốn của vũ trụ Phật giáo nói chung.
Do
vậy, phẩm oản được tạo ước lệ từ hình dáng chính yếu của các tháp Phật
giáo, chuyển tải nhiều tầng ý nghĩa của con người với chư Phật. Theo
Phật giáo Tây Tạng thì tháp có sự liên kết với sinh – tử và tái sinh của
Phật giáo, là nơi tôn kính thờ phụng linh thiêng.
Xã
hội Việt Nam có nền văn hoá mang đậm bản sắc rất riêng được hình thành
sớm nhất trong khu vực Đông Nam Á. Cùng các làng nghề của kinh đô Hoa
Lư, Thăng Long, Thành Nam, Huế, Gia Định xưa v v… ra đời, sản xuất các
sản phẩm từ nông sản, thực phẩm, oản bột, oản sôi cũng được ra đời từ
đây và đồng hành với từng thời kỳ lịch sử nước Việt.
Thủa
vua Trung Tông (thế kỷ 15), khi vua mất. Một vị quan tên là Trịnh Kiểm
muốn chọn người tài lên làm vua nên đã nhờ Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng
Trình) “cố vấn”, Trạng Trình chẳng nói gì nhiều chỉ vỏn vẹn một câu:
“Giữ chùa thờ Phật thì… ăn oản”. Hiều ý câu nói đó là giữ đạo làm tôi,
Trịnh Kiểm liền tìm Lê Duy Bang là đời thứ 6 của nhà Lê lên lập vua –
tức là vua Lê Anh Tông. Nhờ lời tiên tri “Giữ chùa thờ Phật thì… ăn oản”
của Trạng Trình mà quân đội của Trịnh Kiểm đã nhiều lần đánh tan quân
Mạc.
Một
chuyện khác, ngày xưa cụ Phan Kế Bính còn là nho sinh có lần đi đò qua
sông Tam Kỳ. Mấy vị Hòa thượng vừa đi tăn chay về có một túi oản cũng đi
chung đò, biết Phan Kế Bính đói nên cho vài phẩm oản, vì ít quá ăn
không đủ no nên Phan Kế Bính không nhận. Mấy nhà sư đố cụ làm một bài
thơ chủ đề về nhà sư và học trò đi cùng thuyền, nếu hay thì tặng hết túi
oản. Phan Kế Bính liền xuất khẩu thành thơ, trong đó có hai câu cuối:
“… Một chốc lên bờ đà tiễn biệt. Người thì lên Phật, tớ sang ngang”. Mấy
vị Hòa thượng giữ lời tặng hết oản, Phan Kế Bính ăn vèo một lúc hết.
Các Hòa thượng lại cho thêm vài quan tiền và thân mật nói rằng: “Nếu sau
này làm quan dẹp giặc ở đâu thì đừng làm hư hỏng chùa. Sau này, Phan Kế
Bính dẫn quân đi đánh quân nhà Mạc đều dặn kỹ quân sĩ đi đến đâu cũng
phải giữ gìn chùa chiền và bảo vệ nhà sư.
Ca
dao có câu: “Ba mươi – mùng một và rằm. Ai muốn ăn oản thì năng lễ
chùa”. Hoặc dân gian còn truyền miệng câu tục ngữ “Khư khư như ông từ giữ oản”. Vì ông từ coi đền chỉ ăn oản thôi, ban đêm chuột hay rình rập ăn oản nên ông phải đuổi chuột đi mà giữ oản chứ.
Ngày
xưa, trong các làng, xã, mỗi lễ hội còn phân công một chức sắc phải có
trách niệm đăng cai đóng oản dâng lễ cúng và phát cho cả làng, thậm chí
có người đúng đến lượt mình thì đang mắc nợ phải bán cả nhà để đóng oản
cúng thần hoàng làng.
Oản
bột đã được xem là một sản phẩm dân gian song hành với văn hóa tín
ngưỡng của người Việt Nam rất lâu đời. Những họa tiết được người xưa tạo
ra quanh phẩm oản, cái thì có khía thẳng bao quanh oản như cột trụ, cái
được khắc hình rồng ôm ngang oản, ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa về lòng
tôn kính các đấng linh thiêng, thể hiện rất rõ nét tinh hoa của xứ kinh
kỳ xưa và nhằm nâng cao nhận thức mọi thành viên trong xã hội hiểu biết
và tôn vinh những sản phẩm được tạo ra từ sức lao động của những người
làm nông, mang tính kết nối cộng đồng bền chặt trong đời sống văn hóa xã
hội một cách có truyền thống của người Việt xưa và nay.
Tại
làng Yên Lãng nay là phường Láng – Q. Cầu Giấy – Hà Nội, hàng năm cứ
đến tháng 3 và tháng 4 là mùa lễ hội của làng, mỗi chủ lễ phải chuẩn bị
180 phẩm oản cùng hoa quả cúng chùa. Hoặc tại đình
Mai Dịch, trong lễ hội hàng năm của đình, Ủy ban Nhân dân phường Mai
Dịch còn tổ chức cho người dân trong địa bàn tham gia thi đóng oản. Phẩm
oản vì thế cũng không thể thiếu trong kho tàng của văn hóa ẩm thực Việt
Nam.
Rõ
ràng, phẩm oản đã từng có vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm
linh của người Việt và đang được nhân dân và chính quyền một số địa
phương trân quý bảo tồn và gìn giữ. Do đất nước liên tục có ngoại bang
xâm lược gây chiến, văn hóa oản trong lễ hội đã dần bị mai một. Chỉ còn
lại những người lớn tuổi vẫn bảo tồn nét văn hóa này.
Sau
ngày thủ đô giải phóng (1954), người ta thấy dọc phố Hàng Ngang, Hàng
Đường, Hàng Buồm, Hàng Giầy, sặc sỡ sắc mầu giấy bóng kính gói oản bột.
Nay chỉ còn lại vài cửa hàng luyến tiếc nghề truyền thống ông bà nên vẫn
“giữ lửa” đến ngày nay.
Vì
vậy, tại Sài Gòn – Gia Định mua oản bột càng khó, vì phẩm oản ra đời từ
đất cố đô Thăng Long, chỉ những người làm oản rời đất Bắc vào Nam sinh
sống vẫn giữ nghề thì người Sài Gòn mới biết đến phẩm oản.
Bà
Trần Thị Kim Oanh đã ngoài 50 tuổi, chủ tiệm bán bánh và oản bột tại số
203 đường Phạm Văn Hai – Q. Tân Bình cho biết: “Tôi theo gia đình vào
thành phố này từ bé, bố mẹ tôi là người Nam Định chuyên làm bánh cốm,
bánh su suê. Khi lớn lên theo chồng, bố mẹ chồng cũng làm bánh và làm cả
oản bột. Khi bố mẹ chồng mất, tôi giữ nghề của ông bà nên vẫn làm oản
bán, Gia đình làm oản bán tại thành phố này cho đến nay cũng trên 60 năm
rồi”.
Chỉ
đơn giản là yêu nghề làm bánh của người đi trước nên “nàng dâu” này đã
trở thành người giữ nghề truyền thống làm oản của gia đình nói riêng,
tiếp tục cùng những người làm oản ở các địa phương trong nước lưu giữ
nét tinh hoa của tổ tiên. Vì phẩm oản cũng là nét văn hóa ẩm thực độc
đáo của dân tộc do người Việt Nam tạo ra.
Tuy
vậy, oản bột tại Sài Gòn vẫn thưa thớt khách, chỉ vào các dịp lễ tết
mới đông người mua. Có một số Việt kiều khát khao tình cảm quê hương đã
mua rất nhiều oản bột về Mỹ để cúng gia tiên và làm quà. Bởi vì có nhiều
người về Sài Gòn và ngay cả rất nhiều người ở thành phố này muốn mua
oản nhưng không biết địa chỉ. Hơn nữa, oản bột lại để được rất lâu, có
thể để được vài tháng.
Oản
cúng từ tay người làm ra hay theo tay Việt kiều sang nước ngoài thì đều
chung một đạo lý tốt đẹp giữ gìn và truyền bá bản sắc văn hóa ẩm thực
của người Việt.
Phẩm
oản ra đời và phát triển cùng thời với chùa chiền, đình, đền ở Việt
Nam, là nét văn hóa tín ngưỡng quan trọng có truyền thống tốt đẹp trong
đời sống nhân dân. Có thể coi oản bột cũng là một di sản văn hóa ẩm thực
Việt Nam mà không phải quốc gia nào cũng có được.
Ngày
nay, trải qua bao thăng trầm, phẩm oản không chỉ đơn thuần là… oản, mà
phẩm oản đã có hẳn con đường đi xuyên qua chiều dài lịch sử của đất
nước. Vì thế, những người Hà Nội thấy oản ở Sài Gòn là không khỏi nhớ
lại con đường của phẩm oản trong đời sống.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét