Là đệ tử của Đức Phật, chúng ta đi theo lộ trình của Phật đã đi và thể hiện trong cuộc sống những giáo pháp mà Ngài truyền trao cho chúng ta.
Tuy nhiên, trong đạo Phật, khi triển
khai lời Phật dạy, mỗi vị Tổ sư đều có phương pháp thực tập riêng biệt,
khác nhau, tùy theo hạnh nguyện và nhân duyên của từng vị, nhưng tất cả
các ngài đều đạt được sở đắc, sở ngộ. Vì có sự khác biệt trong việc thể
nghiệm giáo pháp mà các ngài đã phân chia ra nhiều pháp môn tu khác
nhau. Từ đó, nói đến tu là người ta nghĩ đến tu pháp môn nào; vì đạo
Phật có đến tám mươi bốn ngàn pháp môn tu để đối trị tám mươi bốn ngàn
phiền não trần lao của chúng sanh, làm cho chúng sanh được an vui giải
thoát và đó chính là con đường của Đức Phật vạch ra. Nếu đi lệch ra khỏi
con đường này là đi vào tà đạo, tức chúng ta tu, nhưng không giải
thoát.
Thực tế cho thấy có những người chưa
tu thì hiền lành, dễ thương; nhưng tu một lúc trở thành khó tánh, khó
chịu, không ai chấp nhận được, là đã đi lệch đường, là tu theo tà đạo.
Thật vậy, nếu tu theo Phật đạo, càng tu thì càng giải thoát; trong khi
đi lệch hướng thì càng tu càng bị ràng buộc. Trên bước đường tu, đi đúng
hướng là việc rất cần thiết đối với tất cả chúng ta.
Khai đạo giới tử tại đại giới đàn Hành Trụ, chùa Huê Nghiêm (TP.HCM). |
Thật vậy, Thiền phải dùng tâm truyền,
tức người đắc đạo truyền cho người có khả năng đắc đạo mà thôi. Trong
lịch sử, khi Phật thuyết kinh Pháp hoa ở Linh Thứu sơn, Ngài đưa cành
hoa sen lên và ngài Ca Diếp mỉm cười, gọi là niêm hoa vi tiếu; nghĩa là
Đức Phật chỉ truyền pháp cho ngài Ca Diếp, tức tâm truyền tâm, hai thầy
trò hiểu nhau mà thôi.
Giáo tông là ngữ ngôn văn tự do Pháp
sư thuyết giảng; cho nên con đường giáo tông được mở rộng hơn. Trong khi
con đường Thiền là giáo ngoại biệt truyền, nên Phật truyền pháp cho Ca
Diếp và chỉ một mình Ca Diếp biết thôi. Đó là điểm đặc sắc tiêu biểu của
việc học Thiền.
Vì vậy, chúng ta thấy Tổ sư Bồ Đề Đạt
Ma đi khắp đất nước Ấn Độ, nhưng không tìm thấy người có khả năng để
ngài truyền pháp. Ngài mới lặn lội sang tận Trung Quốc để tìm, nhưng
suốt cả một đời, ngài chỉ tìm được một người tiếp nhận được pháp là Huệ
Khả. Có thể khẳng định rằng pháp tu Thiền không đơn giản, vì phải hiểu
ngoài giáo lý, phải đắc đạo, phải ngộ đạo. Theo tôi, pháp tu này khó vô
cùng, ít có người đạt được.
Thiền có nhiều phương cách thực hành
khác nhau, cần xem phương cách nào thích hợp với mình để thực tập. Một
là Thiền Ấn Độ hay Thiền ngoại đạo có đồng thời hay trước Phật, nhưng
pháp này của ngoại đạo; vì thế, nếu áp dụng thì phải cân nhắc. Ngày nay,
phái này cũng truyền sang Việt Nam gọi là luyện Yoga. Từ thời Phật tại
thế, việc luyện Yoga mang tính cách tâm linh, nhưng ngày nay mang tính
thể thao, thực tập pháp này để có sức khỏe tốt, nếu được hướng dẫn đúng
pháp.
Hai là Thiền Tứ niệm xứ là pháp căn
bản mà Đức Phật dạy các vị Tỳ-kheo khi Ngài còn tại thế. Tất cả mọi
người bước chân vào cửa đạo phải thực tập pháp này để mở ra con đường
giải thoát cho chính mình. Pháp Thiền Tứ niệm xứ là pháp tu đúng đắn, vì
đó là cái gốc của Phật giáo giúp đệ tử Phật vào cánh cửa giải thoát là
Không, vô tác, vô nguyện. Phật giáo Nam tông đã triển khai sâu rộng pháp này đúng với Chánh pháp.
Ba là Thiền Đông độ phát triển mạnh ở
Trung Quốc (Đông độ chỉ cho Trung Quốc) từ thời Đạt Ma Tổ sư, mà ngày
nay Phật giáo Bắc truyền ở Việt Nam áp dụng gọi là Thiền Tổ sư.
Bốn là khi Thiền Đông độ truyền sang
Nhật Bản thì đã mở rộng theo chiều hướng khác, thích ứng với tinh thần
của xã hội Nhật, nghĩa là Thiền đi vào cuộc đời để tất cả mọi ngành mọi
giới của đất nước này đều thực tập được. Pháp Thiền này thực sự mang
tính thư giãn nhiều hơn, ngày nay chúng ta có thể áp dụng, tức là làm
sao cho đầu óc chúng ta được nhẹ nhàng, vơi bớt ưu phiền trong cuộc
sống.
Có thể gọi là Thiền hay tĩnh tâm
giúp cho mọi người điều hòa thể xác khỏe mạnh và tinh thần tốt đẹp; đó
là Thiền mang tính cách xã hội. Nhờ ảnh hưởng của Thiền, mới xuất hiện ở
Nhật Bản những bài thơ và những áng văn trác tuyệt. Giới võ sĩ đạo
triển khai kiếm đạo, cung đạo, hiệp khí đạo, nhu đạo nhờ hấp thu tinh ba
của Thiền là sức tập trung cao để đạt đến đỉnh cao trong lãnh vực
chuyên môn.
Chẳng hạn võ sĩ muốn bắn trúng một
điểm xa phải tập trung cao vào tiêu điểm xa nhỏ nhất, nhờ vậy, mục tiêu
di động thế nào, họ đều thấy rõ, nên bách phát bách trúng. Hoặc nhờ tập
trung cao mà võ sĩ thấu biết được đối thủ nghĩ gì, tính gì, nên có cách
phá hỏng được ngón đòn của đối thủ ngay từ trong tâm trí. Về nghệ thuật,
có rất nhiều bức tranh, nhiều tác phẩm điêu khắc nổi tiếng của các
thiền sư Nhật sáng tạo. Như vậy, từ Thiền Tổ sư, Thiền Tứ niệm xứ hướng
đến con đường thoát tục, người Nhật đã khai thác, đưa Thiền vào sinh
hoạt xã hội hàng ngày. Ngày nay, cả thế giới ngưỡng mộ Thiền, làm sao
đem Thiền vào cuộc sống, giúp con người khỏe mạnh, tâm lý bình ổn và có
cái nhìn sáng suốt hơn. Đó là pháp đúng đắn mà người tu cần thực tập.
Về pháp môn Tịnh độ, nhiều người hiểu
Tịnh độ một cách đơn giản là thế giới Cực lạc ở phương Tây của Đức Phật
Di Đà và mong rằng sau khi từ giã cõi đời này, sẽ được sanh về thế giới
đó.
Theo tôi, nếu nghĩ pháp môn Tịnh độ
chỉ hướng về thế giới Cực lạc ở phương Tây mà tu tập, chúng ta sẽ bị hạn
chế nhiều mặt, cần phải cân nhắc. Chúng ta hiểu Tịnh độ là gì. Tịnh độ
là trong sạch, hay muốn nói tâm trong sạch, thân trong sạch và quốc độ
trong sạch. Vì vậy, tâm tịnh thì độ tịnh, tức tâm chúng ta thanh tịnh,
hoàn cảnh tự tốt, không phải về Tây phương Cực lạc cách đây mười muôn ức
thế giới mới có Tịnh độ; còn nơi khác không có Tịnh độ.
Đạo tràng tu Tịnh độ. |
Và trở qua kinh Duy Ma, ngài Xá Lợi
Phất nghĩ rằng mười phương Phật thanh tịnh, chẳng lẽ Đức Phật Thích Ca
không thanh tịnh hay sao mà thế giới của Ngài là Ta bà đầy hầm hố gai
chông. Đức Phật liền ấn chân xuống đất thì Tịnh độ hiện ra. Tịnh độ hiện
ra là Thường Tịch Quang Tịnh độ, là thế giới Thiền định của Phật mà
chúng ta không thấy được, không vào được, nên nói là không có.
Ý này được kinh diễn tả rằng tất cả
chúng sanh ví như người mù không thấy ánh sáng, nhưng thực sự lúc nào
ánh sáng cũng có. Tại sao chúng sanh mù. Mù mắt thịt do mắt bị kéo mây,
nhưng mù tâm thì Phật nói do mây ngũ uẩn ngăn che chúng ta không thấy.
Chúng ta từ từ lột bỏ mây ngũ uẩn, ánh sáng sẽ hiện ra. Vì bị đám mây
ngũ uẩn che khuất, cho nên chúng ta ở thế giới thanh tịnh của Phật Thích
Ca, mà chúng ta tự khởi sự ô nhiễm mới thấy khổ.
Đi tu rất sướng đối với người biết tu
và tu có kết quả. Tôi nói thực rằng không gì sung sướng hơn tu. Người tu
không có quyền, không có tiền, nhưng sung sướng nhất. Tuy nhiên, phải
nhận ra chân thật pháp và thực tập đúng đắn mới được sung sướng.
Điều sung sướng nhất là người tu không
bị phiền não thế tục quấy rầy, tức là không buồn, không giận, không lo,
không sợ. Câu chuyện Đức Phật hướng dẫn các vị Tỳ-kheo đi du hóa, gặp
một người chủ trang trại mất bò, chạy hớt hơ hớt hải để tìm bò trông
thực khổ sở thê thảm. Đối trước cảnh khổ đó, Đức Phật mới nói rằng các
Thầy Tỳ-kheo sung sướng vì không có con bò để mất, hay không có gì để
mất. Riêng tôi, trên bước đường tu, tôi cảm thấy sung sướng vì không bị
vướng mắc với ba việc là ăn, mặc, ở như tất cả những người đời luôn luôn
bị ba thứ này làm khổ. Tu hành, làm sao chúng ta tự rèn luyện không bị
lệ thuộc với ba việc này.
Ăn ngủ nhiều để sanh bệnh chỉ chuốc
lấy khổ. Việc tu của chúng ta làm sao hạn chế được ăn ngủ. Tôi sang Nhật
tu Thiền, tới Thiền đường, người ta giao cho tôi một căn phòng trống
trơn, không có chăn, mền, gối gì cả, rất là lạnh. Tôi thức tỉnh, nhận ra
rằng nhờ lạnh không ngủ được, phải thức mới thực tập Thiền. Làm sao
trời lạnh mà không cảm thấy lạnh, không thấy đói, phải thực tập cho được
điều này.
Đi tu, tập bớt ăn nhiều chừng nào thì
đạo giải thoát gần thêm chừng đó. Suốt ngày không ăn cũng được, vì tôi
đã tập bớt ăn, nhịn lần. Ăn vừa đủ, hay ăn thiếu một chút càng tốt, là ý
Phật dạy tam thường bất túc của người tu. Không nên ăn nhiều, ngủ say.
Về đây tu, chúng ta tập bớt ăn uống, nên bớt phóng uế; cho đến ngày nào
các Phật tử chỉ ăn một vắt cơm là tu có kết quả tốt. Tôi đã thực tập
pháp tu này ở Nhật, một ngày chỉ ăn một vắt cơm với một trái xí muội,
rất ngon mà không khát nước, không ra mồ hôi, khỏi đi tiểu. Tuy nhiên,
phải có quá trình thực tập, đừng ép, nguy hiểm. Muốn có cơ thể khỏe
mạnh, phải dùng thức ăn thích hợp và hạn chế những thực phẩm có độc tố;
ăn uống đơn giản để có thì giờ sống với đạo.
Tu là rèn luyện cơ thể có sức chịu
đựng, bảo đảm không bệnh hoạn. Và tiếp theo, chúng ta thực tập những
pháp môn mà Đức Phật chỉ dạy để phá một phần phiền não trần lao, để bước
lần lên đường giải thoát. Như vậy là thân không bệnh, tâm không phiền
não. Mong rằng tất cả quý Phật tử sẽ thực sự sống trọn vẹn trong sự an
lạc tại đạo tràng này và mang sự an lạc ấy về cho gia đình, giữ mãi sự
an lạc ấy trong từng phút giây của cuộc sống.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét