Có lẽ nhiều người sẽ cho tôi là kẻ lẩn thẩn, hoặc gàn dở khi nói về
nỗi buồn này. Vâng! Ruộng bậc thang là kết quả lao động ngàn đời của
người miền cao. Xét về thực tế, lý do ra đời của những thửa ruộng chỉ
rộng bằng chiều ngang của cái bừa ai cũng biết. Thế nhưng, nếu ai đã
từng sải những bước chân theo con trâu, con bò trên những thửa ruộng kia
mới thấm đẫm hết nỗi nhọc nhằn của con người miền cao.
Những "bậc thang" bắc lên huyền thoại
Ngày bé tôi vẫn thường theo pa mé lặn lội trên ruộng bậc thang. Và
bao giờ pa tôi cũng kể chuyện – những câu chuyện buồn bã về nương, ruộng
bậc thang. Ngày ấy, tôi còn quá bé, chưa hiểu hết những điều pa tôi
muốn nói, hay đúng hơn là những điều mà những con người miền cao muốn
kể. Chỉ đến bây giờ, khi cầm máy ảnh, ghi lại hình ảnh lộng lẫy kia,
những câu chuyện tưởng như đã lãng quên lại quay về ám ảnh tôi. Đó là
nước mắt, là máu, là khát vọng, là sự ngốc nghếch, cũng là sự gian dối
của loài người…
Ngày xưa. Từ xa xưa lắm. Khi loài người, thú rừng, hoa cỏ đều sống
chung với nhau. Họ sống hòa thuận dưới sự chăm nom của Đin Phạ (ông
trời). Ngày ấy mặt đất bằng phẳng, loài nào cũng có thực phẩm cho riêng
mình. Con người cũng vậy, họ hái lượm cây trái, sống sung túc yên bình.
Cho đến một hôm, trên cánh rừng xảy ra hỏa hoạn, một con trâu bị chết
cháy. Muôn loài bàn nhau khiêng xác con trâu đi chôn. Trong lúc vác con
trâu trên vai con người ngửi thấy mùi thơm rất lạ, liền tò mò, xẻo lấy
một miếng hít ngửi rồi ăn.
Việc ăn thịt bạn bè là điều tối kỵ lúc bấy giờ. Muôn loài biết việc
người ăn thịt trâu thì bực tức, kéo nhau lên khiếu kiện với Đin Phạ. Lần
đó con người bị phạt bằng cách lột hết bộ lông trên thân thể, phải tìm
vỏ cây làm áo để tránh rét. Tưởng mọi việc êm xuôi, nhưng miếng thịt
trâu trong đống lửa đã ám ảnh loài người. Họ vẫn lén bắt những con thú
nhỏ, nướng trên lửa để ăn. Cái bệnh nghiện thịt nướng mỗi lúc một nặng.
Vì ăn thịt nên thân xác con người béo ú, sinh sôi nảy nở không đúng mùa.
Cứ thế loài người nhiều lên và ngày càng nghiện thịt nướng. Muôn loài
sợ hãi con người tìm cách lánh xa, rồi lại kéo đi tìm Đin Phạ.
Lần này Đin Phạ thấy con người đã quá đông, sinh sôi không theo mùa,
thân xác béo ú, ăn uống ghê tởm… nên đã làm phép, tạo nên núi đồi và
khuyên muôn loài leo lên đó sinh sống để tránh xa con người. Từ đó loài
người bị cô lập, sống nheo nhóc ở bên dưới. Do ăn thịt nướng, thân xác
béo ú, bốc mùi hôi thối… ngay cả hoa cỏ cũng không dám ở gần, chúng cũng
rủ nhau leo lên đỉnh núi mà sinh sống. Loài người bắt đầu đói khát,
chém giết lẫn nhau, ngày càng tàn độc. Cuối cùng, họ quyết định họp lại
cử một người lên gặp Đin Phạ để xin tha tội.
Đin Phạ thấy con người với hình hài tiều tụy, nảy lòng thương nên đã
đưa cho một gói hạt giống rồi dạy: từ nay đừng tàn sát loài khác để ăn
thịt, ngươi hãy đem gói hạt giống này về, reo xuống vùng đất phẳng,
chúng sẽ sinh ra hạt gạo cho các ngươi. Con người cảm tạ ra về và làm
theo lời Đin Phạ. Thế nhưng chẳng được bao lâu, khi cái ăn đã đầy đủ,
cơn thèm thịt nướng vẫn không nguôi, loài người lại lén trèo lên đỉnh
núi bắt những con thú về ăn. Rồi họ phóng uế khắp nơi, bốc mùi hôi thối,
cây lúa không chịu được cứ thế tìm cách leo lên núi đồi để tránh. Ngày
tháng trôi qua, cây lúa ngày càng phải leo lên cao – cao mãi trở thành
nương, ruộng bậc thang bây giờ. Còn muôn loài thì sợ hãi, chỉ cần thấy
bóng dáng con người lập tức trốn chạy. Và thỉnh thoảng, muôn loài xúm
lại vần đất đá, cây cối lăn xuống để xua đuổi con người.
Ấy là câu chuyện của người Tày, pa tôi vẫn kể mỗi khi leo lên những
thửa ruộng bậc thang cày cuốc. Làm lụng trên ruộng bậc thang nhọc nhằn
gấp trăm lần ở đồng bằng. Nếu Đin Phạ thương tình, cho mưa đúng lúc còn
có cái ăn. Khi nào Đin Phạ nổi giận chẳng cho nước thì cái đói lại đến.
Người vùng cao muôn đời phụ thuộc vào Đin Phạ, luôn cầu khấn bề trên để
được mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Nhưng có lẽ lời dạy ngày xưa
con người không chịu nhớ - đừng tàn sát muôn loài để ăn thịt! Vì thế
thân xác con người hôi thối, béo ú, dị dạng… nên Đin Phạ không muốn
nhìn. Con người trở nên cô độc và mỗi ngày càng phải leo cao hơn để đuổi
theo cây lúa.
Vào mùa này, những thửa ruộng bậc thang thật lộng lẫy - một vẻ đẹp tự
nhiên như sự sắp đặt của ông trời. Màu vàng của lúa chín cứ thế bay
lượn, uốn cong, nhảy nhót cùng nhịp điệu của núi đồi. Nhịp điệu ấy như
cuộc đuổi bắt của con người với cây lúa trên miền cao - mỗi ngày một
cao.
Thế rồi cây cối bị chặt phá, hệ sinh thái đảo lộn. Hễ trời mưa lại
sụt lở và lâu ngày trở nên thảm họa: lũ quét! Nếu ai từng chứng kiến
thảm họa này mới thấy sự tàn sát của nó thật lạnh lùng. Lũ ở đây không
ầm ì, không báo trước, nó đột ngột đến khó tin - cái chết đến một cách
lạnh lùng. Cách đây bảy năm, tôi nhớ rất rõ cả một quả đồi đầy ruộng bậc
thang tươi tốt, vào mùa lúa chín nó cũng mang vẻ đẹp lộng lẫy, làm say
đắm bất cứ kẻ nào. Thế nhưng chỉ sau một đêm mưa lớn, quả đồi ấy trượt
xuống chôn vùi cả một bản người Tày. Cái chết lạnh lùng đến nỗi chẳng ai
biết gì, ngay cả với những người bị chôn vùi. Có lẽ với họ đấy là một
giấc mơ dài và không bao giờ tỉnh lại. Họ đang ngủ yên trong ngôi nhà
của mình, họ đang chờ những hạt gạo kia đến ngày gặt hái. Nhưng chỉ một
đêm - một tích tắc - một sự nổi giận của Đin Phạ - họ đã vĩnh viễn không
bao giờ tỉnh lại nữa - tất cả im lặng dưới lòng đất.
Khi cơn lũ đi qua, rừng núi trả cho con người những thứ rác rưởi, đất
đá… bẩn thỉu và hôi thối. Để rồi cây lúa lại phải leo lên cao hơn - cao
mãi! Và con người buộc phải đuổi bắt, còng lưng cuốc xuống, làm nương -
ruộng trên cao. Cứ thế, đời này qua đời khác, con người chỉ còn cách
còng lưng đào bới, làm phẳng từng gang đất để gieo cấy.
Mấy hôm vừa rồi, chúng tôi đi qua miền Tây Bắc. Ai cũng ngất ngây
trước vẻ đẹp diệu kỳ của những thửa ruộng bậc thang, những đám nương lúa
vàng óng mùa bội thu. Nhìn những đám nương, thửa ruộng cao tít tắp,
khoác trên mình màu vàng no ấm – sự no ấm như tràn ngập núi đồi, trong
tôi bỗng dâng lên nỗi buồn và cả sợ hãi nữa. Núi đồi trơ khấc, không một
cái cây lớn, không một nơi bấu víu. Nếu mưa lớn thì sao nhỉ!? Cứ nghĩ
thế tôi lại sợ. Cái hình ảnh cả một bản người Tày năm nào biến mất lại
hiện về: núi đồi trơ khấc, lở loét đỏ au như người ta mổ trâu bò. Và bên
dưới là những linh hồn không tin mình đã chết. Cái chết không bệnh tật,
không đau đớn, cái chết nhanh đến nỗi sáng ra nhiều người vẫn tưởng đó
là một cơn ác mộng, cứ bấu mãi vào đùi mình để tìm cách tỉnh lại. Một
đôi vợ chồng mới cưới đang ái ân cũng vĩnh viễn im lặng trong tư thế
lãng mạn đó. Vài đứa trẻ đang nhoẻn cười vì đang mơ được quà. Tất cả
không tin mình đã chết! Những cái chết như thế không đau đớn về thể xác,
nhưng tù túng linh hồn và ám ảnh những người còn sống mãi mãi!
Và câu chuyện về sự chạy trốn muôn loài xưa kia lại ám ảnh tôi. Đó là
chuyện cổ tích hay một lời nguyền!? Điều này chẳng cần lý giải, vì
thỉnh thoảng loài người vẫn phải nhận những đợt lũ quét: đất, đá, cây
cối, rác rưởi… của muôn loài ném xuống. Ngày xưa muôn loài ném xuống chỉ
để xua đuổi con người. Nhưng bây giờ không phải thế nữa, đó là sự hủy
diệt đến ghê rợn. Mỗi cơn lũ quét đi qua, tất cả những gì con người nhận
được chỉ là đá tảng. Những tảng đá trơ khấc, lạnh lùng, thừa thãi đã
chiếm hết đất đai vốn ít ỏi của con người. Chỉ còn cách leo lên cao nữa
mà đào bới, mà gieo cấy để tìm cái ăn.
Cho đến tận bây giờ, con người luôn bị cô lập vì sự tham lam và thích
ăn thịt nướng của mình. Khắp vùng Tây Bắc chẳng thiếu gì những quán
thịt thú rừng. Bất cứ quán ăn nào khi có khách họ đều mời chào: “Có thịt
thú rừng đấy.”. Thế rồi, họ dẫn thực khách xuống bếp để tận mục những
tảng thịt đỏ au. Những con lợn rừng còn dính thủ cấp, những con nai còn
dính cẳng chân, những con cáo bị lột da trần truồng như đứa trẻ… Tất cả
trợn mắt, nhe răng như cười khẩy vào mặt chúng tôi.
Ban đầu ai cũng có vẻ sợ, có vẻ lắc đầu vì tình thương… thú vật.
Nhưng cái đầu mang gen loài người nghiện thịt từ ngàn xưa đã chế ngự: ăn
món lạ cho sướng! Và chúng tôi đã nhai những miếng thịt kia trong bộ
răng với cái lưỡi của loài nghiện thịt. Lời khuyên của Đin Phạ dành cho
con người ngày nào không còn vang lên nữa. Chúng tôi ăn uống hỉ hả như
những thực khác hạng sang, thỉnh thoảng lại khen ngon như sành điệu lắm.
Trong những quán nhậu thịt thú rừng đó, lâu lâu lại xuất hiện một thợ
săn người bản xứ, đeo súng, giắt dao, vác trên vai một con thú rồi ném
bịch xuống đất, máu tươi bắn tung tóe: tối qua mới bắn được đấy, mua
không, lợn rừng đấy… Người thợ săn với gương mặt mệt mỏi, còn dính đầy
máu tươi, như một chiến binh vừa qua trận đánh mà thấy con người thật
tội nghiệp. Muôn loài đã kinh hãi chúng ta lắm rồi!
Rồi chủ quán lại bê lên những đĩa xôi nếp nương thơm lự. Món này ai
cũng thích, món này là đặc sản địa phương. Nếu ai chưa ăn coi như chưa
lên Tây Bắc. Những hạt gạo nếp thơm dẻo, được bàn tay thô vụng của chúng
tôi nén chặt, bỏ vào bộ răng cùng cái lưỡi của loài chỉ thích hưởng
thụ. Vị thơm đậm ấy lan tỏa, trôi xuống cuống họng, đi vào dạ dày mang
gen loài ăn thịt ấy mới thích thú làm sao. Không biết cho đến bây giờ
cây lúa đã leo cao đến đâu để tránh xa xú uế của con người nhỉ? Nó càng
chạy, chúng ta càng đuổi và càng phải làm phẳng đất đai để gieo cấy.
Đồi núi trở nên nham nhở hơn bao giờ hết, cuộc đuổi bắt này sẽ không
ngưng nghỉ vì cái ăn phàm tục của con người. Đúng rồi, con người vì ăn
thịt nên thân xác béo ú, sinh sôi không đúng mùa - Đin Phạ chẳng nói thế
là gì. Muôn loài sinh sôi đều có mùa, chúng sinh sôi theo quy luật của
Đin Phạ ban cho. Nhưng con người từ khi biết ăn thịt, thân xác đã khác
đi, sinh sôi bất chấp quy luật nên mới đông đảo như thế. Câu nói: “mùa
tình” của người miền cao có thể mang một xuất xứ như vậy. Có thể lắm
chứ, trong muôn loài, sự “yêu đương” của chúng đều có mùa, chỉ riêng với
loài người thì không. Bất cứ lúc nào: xuân, hạ, thu, đông đều là “mùa
tình” của con người - bậy bạ lắm.
Chúng tôi lại đi, rồi thỉnh thoảng lại dừng chụp ảnh. Tất cả đều hào
hứng bấm máy trước vẻ đẹp rực rỡ của nương, ruộng bậc thang vùng Tây
Bắc. Đẹp lắm! Mà đẹp thật! Hình thức đẹp quá! Màu vàng quyến rũ quá, lại
sang trọng nữa. Những đám nương kia có hình như thổ cẩm, quả đồi này
lại giống mâm xôi nóng hổi v.v… và v.v…
Ai cũng thốt lên như thế, sung sướng vì mãn nhãn, vì được thả hồn
theo hùng vĩ của núi rừng. Có lẽ chỉ riêng tôi – kẻ gàn dở duy nhất
trong đoàn bị ám ảnh bởi câu chuyện xa xưa kia.
Trong ống kính của tôi bỗng xuất hiện một người bản xứ, người ấy có
dáng đi lầm lũi, trên lưng gùi một bó lúa vàng rực, kiểu đi lầm lũi, mặt
cúi gằm ấy như một cuộc truy đuổi đã đến hồi mệt mỏi, hoặc rất cô đơn.
Tôi dừng lại, tự lẩm bẩm trong đầu: không chụp nữa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét