Phật dạy trong kinh Điềm lành tối thượng: “Hiếu dưỡng mẹ và cha/Nuôi
dưỡng vợ và con/Làm nghề không rắc rối/Là điềm lành tối thượng”.
Khát vọng lớn nhất của con người khi
hiện hữu ở cõi đời là được sống hạnh phúc. Có thể nói, hạnh phúc là sự
mong ước và chờ đợi một điềm lành đến với chính mình và mọi người xung
quanh ta.
Thế nhưng, hạnh phúc hay điềm lành
không phải tự nhiên đến với mọi người. Nó được thiết lập trên nền tảng
kể từ khi ta vừa lọt lòng, mẹ cha đã truyền thông trao cho cái gia tài
đầu tiên “tình người” bắt đầu từ tình phụ mẫu đối với con cái. Đây chính
là kết quả ươm mầm, ra hoa kết trái của những hạt giống yêu thương, của
sự kết nối truyền thông qua các mối quan hệ trong cuộc sống đời thường
mà không có một bút mực nào mô tả cho hết.
Trong dòng chảy văn hóa tình người,
xưa nay con người không ngừng suy nghiệm và thực thi tâm hiếu hạnh như
là thông điệp sống có ý nghĩa nhân văn cao cả, trên hết là hướng đến
giải thoát khổ đau, xây dựng nếp sống hướng thiện. Do đó, ta chẳng ngạc
nhiên gì, các học thuyết, giáo lý triết lý hiện hữu ở đời đều được xây
dựng trên nền tảng từ tâm hiếu hạnh. Nói rõ ra, thực thi tâm hiếu là
thực thi điềm lành tối thượng, thực thi nếp sống hạnh phúc an lạc ở đời
này, đời sau như Phật dạy trong kinh Điềm lành tối thượng: “Hiếu dưỡng
mẹ và cha/Nuôi dưỡng vợ và con/Làm nghề không rắc rối/Là điềm lành tối
thượng”.
Xem ra, tất cả sự thành tựu của mỗi
người đều xuất phát từ tâm hiếu. Cho nên, trong các hạnh, hạnh hiếu được
xem là hạnh đứng đầu. Một người có hiếu kính với mẹ cha thì mới có sự
liên hệ thân thiện với những người xung quanh. Nói rộng ra, một người có
tâm hiếu chí thành thì mới có sự tôn kính với cha mẹ, hiếu đễ với bà
con dòng họ, kết nghĩa keo sơn của tình huynh đệ tỷ muội, chung thủy với
người tình trăm năm, chung sống hòa thuận với làng xóm, gắn kết với
cộng đồng xã hội. Kể từ đây, người ta mới có khái niệm hiếu kính với mẹ
cha, hiếu đễ với bà con, hiếu tình với người bạn đời, hiếu thuận với mọi
người, hiếu tâm với mọi công việc trong cuộc hành trình hướng tâm xây
dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc.
Kinh Thi, một trong những bản kinh cổ
xưa của học thuyết Nho giáo đã không ngần ngại tuyên ngôn “Hiếu đạo” là
cơ sở thiết lập, mở đầu văn hóa tình người một cách thiết thực mà ai
cũng có thể cảm nhận: “Phụ hề sinh giả, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu
sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực” (Cha sinh ta ra,
mẹ bồng bế ta, thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo đáp ân
sâu, khác nào trời cao không lường). Rõ ràng, cội rễ văn hóa con người
được kết tinh bằng tình thương cha mẹ dành cho con cái. Hay nói cách
khác, khi tâm hiếu chảy đến đâu tình người hóa hiện đến đó. Cho dù bạn
là ai, từ đâu đến, tất cả đều đi không ra khỏi cuộc hành trình bất tận
mà phụ mẫu đã đi qua mà kinh điển xưa nay đúc kết với chín chữ “Cù lao”:
Sinh (đẻ ra), Cúc (nâng đỡ), Phủ (vuốt ve), Súc (nuôi cho bú mớm),
Trưởng (nuôi cho khôn lớn), Dục (dạy dỗ), Cố (trông nom), Phục (xem tính
tình mà bảo ban), Phúc (bảo vệ).
Thế nên, Khổng Tử từng nói:“Đạo hiếu
bắt đầu từ việc thờ cha mẹ, kế đến là thờ vua giúp nước và sau cùng là
lập thân”. Đó chính là suối nguồn văn hóa mà mỗi cá nhân hiện hữu ở cõi
đời này đều khát khao thực thi. Lịch sử thường minh chứng như thế, một
người được tiếp nhận nguồn giáo dục khởi đầu bằng sự hiếu thảo với mẹ
cha khi ở nhà, cũng có thể là người nỗ lực đóng góp cho đất nước. Và như
thế, đây chính là mẫu người trung hiếu lưỡng toàn của mỗi gia đình, của
mỗi quốc gia dân tộc.
Trang Tử còn khai mở đạo Hiếu rộng ra
để mỗi người có điều kiện thực thi bằng sự thâu tóm qua ba điều:“Đạo
Hiếu có ba: Đại hiếu là tôn kính cha mẹ, kế là không làm cho cha mẹ mang
tiếng nhục, sau cùng mới là nuôi dưỡng”. Xem ra, trong ba điều, điều
thứ nhất là điều giữ vai trò thiết yếu, nó quyết định sự hình thành nhân
cách con người. Con người có trưởng thành và thăng tiến bắt đầu từ sự
tôn kính, tôn thân. Bổn phận người con hiếu hạnh là phải biết thương yêu
và kính trọng cha mẹ. Đây chính là đại hiếu.
Điều thứ hai mà Trang Tử muốn đề cập
đến đạo Hiếu là không làm cho cha mẹ bị mang tiếng nhục. Bổn phận người
con có hiếu phải biết giữ gìn thanh danh cho cha mẹ. Điều này có nghĩa
thanh danh của cha mẹ cũng chính là thanh danh của chính mình. Do đó,
người con phải biết sống đạo đức mà học thuyết Nho gia khuyến cáo theo
tinh thần Tam cương, Ngũ thường, Tam tùng, Tứ đức, Phụ từ tử hiếu, Phu
xướng phụ tùy để thiết lập các mối quan hệ giữa người với người ngày
càng tốt hơn, không nên vì danh lợi thực thùy mà cha mẹ phải tủi nhục vì
con cái.
Điều thứ ba mà Trang Tử khuyên đạo làm
người là phải biết nuôi dưỡng, phụng dưỡng cha mẹ như là bổn phận trách
nhiệm của bất cứ người con có hiếu nào ở đời này. Điều này khiến chúng
ta càng thấy lời khuyên của Khổng Tử thâm thúy hơn bao giờ hết, nhất là
trong văn hóa ứng xử với cha mẹ: “Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ
kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí ưu, tang tắc trí ai, tế tắc trí
kỳ nghiêm” (Người con hiếu phụng dưỡng cha mẹ, ăn ở cư xử phải cực kỳ
cung kính, nuôi dưỡng cha mẹ hết sức vui vẻ, khi cha mẹ đau ốm phải lo
lắng hết lòng, khi lo việc ma chay phải cực kỳ thương xót, khi cúng tế
cha mẹ phải rất mực trang nghiêm”. Rõ ràng đạo Hiếu mà Nho giáo thiết
lập sẽ có tác động vào quá trình hình thành và phát triển văn hóa con
người trên mọi lĩnh vực.
Phật giáo truyền vào nước ta với nền
giáo lý cũng được thiết lập trên cơ sở suối nguồn của tâm hiếu. Chính
Đức Phật từng nói tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Trong
kinh Tương ưng, Phật còn nói: “Vô thỉ luân hồi, tất cả chúng sinh từng
làm cha, làm mẹ, làm anh, làm chị, là bà con quyến thuộc trong các nẻo
đường sinh tử”. Xem ra, giáo lý nhà Phật thiết lập nền văn hóa cho nhân
loại cũng khởi đầu bằng việc tiếp nhận văn hóa hiếu hạnh. Đạo lý giải
thoát khổ đau, chứng ngộ Niết-bàn cũng bắt đầu từ đây.
Nếu Kinh Thi nói tóm tắt công đức cha
mẹ qua chín chữ cù lao như trên thì kinh Đại báo phụ mẫu trọng ân trình
bày công ơn sinh thành của cha mẹ và giải trình phương pháp báo đáp ân
đức phụ mẫu một cách rốt ráo và cụ thể rõ ràng hơn. Có thể nêu ra đây 10
công đức của mẹ đối với con cái: 1. Chín tháng cưu mang khổ nhọc, 2. Sợ
hãi, đau đớn khi sinh, 3. Nuôi con cam đành cực khổ, 4. Nuốt cay, mớm
ngọt cho con, 5. Chịu ướt, nhường ráo cho con, 6. Sú nước, nhai cơm cho
con, 7. Vui nhặt đồ dơ cho con, 8. Thương nhớ khi con xa nhà, 9. Có thể
tạo tội vì con, 10. Nhịn đói cho con được no.
Kinh Tăng Nhất A-hàm còn ghi lại lời
dạy của Phật về công ơn sâu dày của cha mẹ thật cao hơn trời, sâu hơn
biển cả, đồng thời khuyên con người phải biết tri ân và báo ân với cha
mẹ: “Này các thầy Tỳ-kheo, nếu có kẻ vai trái cõng cha, vai phải cõng
mẹ, đi xa nghìn dặm, cung phụng đầy đủ mọi thức ăn, đồ mặc, chăn đệm và
thuốc thang, thậm chí cho cha mẹ có tiểu tiện trên vai mình đi nữa, cũng
chưa trả được ân sâu. Các thầy phải hiểu rằng ân cha mẹ nặng lắm, bồng
bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, làm cho ta trưởng thành. Vì thế mà
biết ân khó trả. Này các thầy Tỳ-kheo, có hai việc làm cho phàm phu được
công đức lớn, được quả báo lớn, đó là phụng sự cha và phụng sự mẹ”.
Như con sông tuôn chảy về biển cả, tâm
hiếu hạnh cần phải hóa hiện từ trong những trái tim biết yêu thương và
khối óc bừng sáng trí tuệ trong văn hóa tình người. Mục đích cuối cùng
là không ngoài việc khuyến cáo con người không chỉ hoàn thiện nhân cách
mà còn giúp con người biết quý trọng cha mẹ, anh chị em ông bà, chung
thủy với người bạn đời, hòa thuận với mọi người trong xã hội và không
ngừng nỗ lực tích cực đóng góp cho đất nước, cho đời, cho đạo.
Kinh Tâm Địa quán, Đức Phật ví dụ công
đức của cha mẹ như núi cao biển rộng sông dài: “Ân cha lành cao như núi
Thái/Đức mẹ hiền sâu tợ biển khơi/Dù cho dâng trọn một đời/Cũng không
trả hết ân người sinh ra”. Sự đền ơn đáp nghĩa cho cha mẹ không gì hơn
là phải thực thi năm điều mà kinh Thi-ca-la-việt ghi, 5 điều bao gồm: 1.
Cung kính và vâng lời cha mẹ, 2. Phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu,
3. Giữ gìn thanh danh và truyền thống gia đình, 4. Bảo quản tài sản do
cha mẹ để lại, 5. Lo tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời. Ngoài ra, Đức
Phật còn đề cập bốn trách nhiệm để hướng dẫn cha mẹ sống đúng theo Chánh
pháp: 1. Nếu cha mẹ không có niềm tin, khuyến khích cha mẹ phát tâm tin
tưởng Tam bảo, 2. Nếu cha mẹ xan tham, khuyên cha mẹ phát tâm bố thí,
3. Nếu cha mẹ làm ác thì khuyên cha mẹ hướng tâm làm việc thiện, 4. Nếu
cha mẹ theo tà kiến thì khuyên cha mẹ theo chánh kiến. Đây chính là
“hiếu dưỡng mẹ cha là điềm lành tối thượng” trong sự thực thi đời sống
hạnh phúc, an lạc mà bất cứ ai là Phật tử đều mong chờ.
Một người có trách nhiệm hiếu kính với
mẹ cha, chắc chắn có hiếu tình với người bạn đời. Đạo lý người Việt dạy
rằng: “Trai lớn lấy vợ, gái lớn lấy chồng”. Do đó, bất cứ cha mẹ nào
cũng mong muốn con cái của mình hạnh phúc trong tổ ấm gia đình. Dưới cái
nhìn của tấm lòng thương yêu vô bờ bến của tình phụ mẫu, cha mẹ bao giờ
cũng mong muốn được nhìn thấy con cháu của mình chung sống hạnh phúc,
hòa thuận vững bền. Kinh nói “Mẹ già trăm tuổi còn thương con tám mươi”
là vậy, mẹ cha bao giờ cũng dõi mắt theo con cháu suốt đời. Một người
thực thi xây dựng đời sống gia đình hạnh phúc chính là thực thi tâm báo
hiếu với cha mẹ, là thực thi tâm hiếu tình của mình với người vợ, (hay
người chồng) trong dòng sống tương tục. Thế nên, Phật dạy: “Nuôi dưỡng
vợ con là điềm lành tối thượng”.
Ai cũng biết rằng yêu và được yêu là
điều hạnh phúc nhất ở đời. Trong cuộc hành trình tìm kiếm hạnh phúc lứa
đôi, để đến với nhau thành một đôi vợ chồng trong mối tương duyên giữa
cuộc đời này là nhân duyên lớn. Duy trì, nuôi dưỡng niềm hạnh phúc lứa
đôi này cho đến khi “tóc bạc răng long” thì thiện duyên này lại càng lớn
hơn. Vì vậy, kinh Thiện sinh, Phật dạy người chồng đối với vợ có các
bổn phận: kính trọng vợ, chung thủy với vợ, săn sóc chu đáo đời sống
kinh tế của người vợ với sự cung cấp các tiện nghi vật chất, nuôi dưỡng
tình cảm, thường tặng quần áo, đồ trang sức cho vợ. Vợ đối với chồng có
các bổn phận: làm tốt đẹp bổn phận của mình đối với chồng, khéo đón tiếp
bà con, chung thủy với chồng, khéo giữ gìn tài sản của chồng, khéo léo
nhanh nhẹn trong mọi công việc.
Rõ ràng, hạnh phúc gia đình là cơ sở
thiết lập hạnh phúc của xã hội. Trong đời sống thực tiễn, hạnh phúc lứa
đôi qua sự thương yêu là chưa đủ, hạnh phúc còn đòi hỏi các nhu cầu thực
tế hơn nữa. Kính trọng là thái độ cần thiết trong mối quan hệ giữa vợ
chồng, thể hiện tình người, khiến cho tình yêu thêm nồng nàn, mang tính
bền vững hơn nữa. Sự tôn trọng lẫn nhau làm tình yêu thăng hoa, sẵn sàng
sẻ chia cho nhau những khó khăn cũng như sự thành công trong cuộc sống,
từ đó con cái sẽ trọn hưởng niểm hạnh phúc từ trong vòng tay mẹ cha.
Hạnh phúc giữa vợ chồng còn được thể
hiện qua sự hiếu tình mà người chồng có bổn phận bảo đảm nền kinh tế cho
gia đình mình. Khi lòng yêu thương và kinh tế gia đình ổn định, người
vợ cần được người chồng quan tâm, nuôi dưỡng tình yêu liên tục, thỉnh
thoảng sắm quà cho vợ, bày tỏ tình thương yêu, lòng trung thành của
người chồng. Người vợ sẽ mỉm cười, hạnh phúc thật sự khi bạn đời trăm
năm đi đâu xa về mà tặng quà cho mình. Một bộ đồ, một món trang sức là
tâm lý mong chờ của người vợ luôn hướng nghĩ đến tính chung thủy của
người chồng.
Đáp lại, người vợ phải thương yêu,
kính trọng, trung thành với người chồng. Đây là một trong những điều
kiện cần và đủ để thiết lập hạnh phúc lứa đôi mang tính vững bền. Thực
tế, trong khi người chồng quá bận rộn công việc xã hội, người vợ phải có
bổn phận quản lý, gìn giữ tài sản gia đình, khéo léo điều hành công
việc, khéo léo đối xử, niềm nở tiếp đón những người bà con của chồng,
vui vẻ với láng giềng. Xem ra, người vợ là nhân tố kết nối yêu thương
với mọi người không những đối với những người thân trong gia đình mà còn
đối với những người trong xã hội. Vì thế, người ta nói “giàu nhờ bạn,
sang nhờ vợ” là một sự thật hiển nhiên. Thậm chí, trong những hoàn cảnh
khác nhau, người vợ cư xử với chồng như là người yêu, người bạn và có
khi như là người chị, người em, người mẹ của chồng.
Và như vậy, mối quan hệ giữa vợ chồng
là mối quan hệ thể hiện sự hiếu kính, hiếu thuận, hiếu tâm ở đời, nó báo
hiệu cho một điềm lành hạnh phúc tối thượng. Vợ chồng càng kính trọng
bao nhiêu, càng tùy thuận với nhau bấy nhiêu, cùng nhau chia sẻ mọi tâm
tư tình cảm, cùng nhau gánh vác công việc thu nhập chi tiêu, vun đắp đời
sống hạnh phúc gia đình, là tấm gương phản ánh cho con cái noi theo.
Là người Phật tử được sinh ra, lớn
lên, trưởng thành thì trách nhiệm và bổn phận đối với cha mẹ, vợ (chồng)
con là hết sức quan trọng. Gia đình có hạnh phúc hay không sẽ tùy thuộc
vào mỗi thành viên trong gia đình có làm tốt trách nhiệm và bổn phận
của mình đối với gia đình hay không. Dĩ nhiên, trách nhiệm và bổn phận
sẽ tùy thuộc vào vị trí và vai trò của từng thành viên trong gia đình mà
có sự sai khác. Ở đây, mỗi người cần thể hiện sự hiếu tâm của mình ở
trong gia đình. Bởi có trách nhiệm chăm lo đời sống cho cha mẹ, vợ
(chồng) con, nên mỗi thành viên trong gia đình cần có công ăn việc làm
ổn định. Với nghề nghiệp hợp pháp, đúng pháp sẽ là cơ sở thiết lập nên
hạnh phúc tự thân và hạnh phúc gia đình. Người ấy không nên vì bất cứ lý
do gì mà làm các nghề nghiệp không hợp pháp khiến gây bất an cho gia
đình và làm rối loạn xã hội. Cho nên, Phật dạy: “Làm nghề không rắc rối
là điềm lành tối thượng”.
Trong trách nhiệm nuôi dưỡng vợ
(chồng) con thì người Phật tử không những phải chăm lo đầy đủ các tiện
nghi vật chất gia đình, mà còn phải chú ý đến đời sống tinh thần của mọi
thành viên trong gia đình mình. Người Phật tử cần dành thì giờ để chăm
lo việc giáo dục con cái, hướng dẫn trở thành những đứa con ngoan, những
học trò giỏi. Người ấy cần vui vẻ, hòa thuận với vợ (chồng) mình trong
mọi công việc và đặc biệt, cần lắng nghe và tham khảo ý kiến của cha mẹ
trong nhiều trường hợp để hưởng trọn niềm hạnh phúc hơn.
Có thể nói, mỗi người càng thể hiện sự
hiếu tâm của mình trong việc khéo léo cư xử tốt trong các trách nhiệm
và bổn phận của mình đối với tự thân, đối với gia đình và xã hội càng
cao bao nhiêu thì sự mong chờ hạnh phúc sẽ dễ dàng hóa thành hiện thực
bấy nhiêu. Cụ thể, người đó cần thể hiện sự hiếu tâm qua thực thi bốn
điều căn bản sau: 1. Làm việc giỏi, siêng năng, quản lý giỏi, giàu nghị
lực vươn lên. 2. Bảo vệ tất cả của cải đã làm ra một cách hợp pháp. 3.
Tiêu dùng đúng việc, đúng mức, không phung phí, không keo kiệt. 4. Giao
lưu với bạn bè có tính khoan dung cởi mở, có tín, có thí, có giới và
tuệ.
Tại đây, ta có thể nói đạo Phật chính
là đạo hiếu, tâm hiếu là tâm Phật. Một người thực thi tâm Phật tức là
thực thi một nếp sống thiện lành: hiếu kính với mẹ cha, hiếu đễ với bà
con, hiếu tình với người bạn đời, hiếu thuận với mọi người xung quanh,
chắc chắn người ấy sẽ có kết quả của một đời sống bình an nội tại ngay
trong đời này; khi lâm chung sẽ sinh vào nơi cảnh giới an lành. Trên
hết, thực thi tâm hiếu là thực thi sẽ bảo lưu mọi giá trị văn hóa truyền
thống, sự kết nối giữa người còn kẻ mất theo nguyên lý duyên sinh duyên
khởi:“Hiếu thuận hoàn sinh hiếu tử/Ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch
nhi/Bất tín đãn khán thiềm đầu thủy/Điểm điểm trích trích bất sai di”
(Nếu mình hiếu thảo mẹ cha/Mai sau con hiếu với ta khác gì/Nếu mình ăn ở
vô nghì/Đừng mong con thảo làm gì uổng công/Kìa xem giọt nước xuôi
dòng/Giọt sau, giọt trước cũng đồng một nơi).
Vậy là, bất cứ ai thực thi nếp sống
hiếu hạnh tức là thực thi điềm lành tối thượng nhất ở đời. Suy cho cùng,
hạnh phúc đồng nghĩa với sự hóa hiện những khát vọng mong chờ cuộc sống
cao đẹp nhất trong hiện thực đời này, đời sau. Trong ý nghĩa đó, Vu lan
là dịp để mọi người tiếp nối cho dòng chảy văn hóa thực thi hiếu hạnh
tình người. Vu lan - nơi hội tụ hoa thơm quả ngọt dâng cho quá khứ cha
mẹ bảy đời, cho cha mẹ hiện tiền, lục thân quyến thuộc, cho những ai
hiện hữu trong cõi đời này.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét