Không phải ngẫu nhiên mà sau khi thành đạo, Thế Tôn đã không vội vàng thuyết pháp, bởi chúng sanh nghiệp chướng sâu dày, thật khó lãnh hội được tuệ giác duyên khởi – vô ngã. Và cho đến về sau, không phải với bất cứ ai, Ngài cũng triển khai về điều này
Một thời, Thế Tôn trú ở Bàranasi, tại Isipitana, chỗ vườn Nai. Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến, sau khi đảnh lễ, thưa Thế Tôn:
Thưa Tôn giả Gotama, có tự ngã không?
Thế Tôn im lặng. Sau khi hỏi lại lần thứ hai, Thế Tôn cũng im lặng, du sĩ Vacchagota liền đứng dậy và ra đi.
Rồi tôn giả Ananda, sau khi du sĩ ra đi, hỏi Thế Tôn vì sao không trả lời câu hỏi của du sĩ Vacchagotta.
Này
Ananda, nếu Ta trả lời “có tự ngã” như vậy thuộc về chấp thường kiến.
Và nếu Ta trả lời “không có tự ngã” như vậy thuộc về chấp đoạn kiến.
Lại
nữa, này Ananda, nếu Ta trả lời “có tự ngã”, như vậy, câu trả lời của
Ta có phù hợp với trí tuệ “Tất cả các pháp là vô ngã”? Và nếu Ta trả lời
“không có tự ngã”, như vậy, lại làm cho du sĩ Vacchagotta càng ngơ
ngác, bối rối hơn nữa: “Trước đây ta có tự ngã, nay không có tự ngã
nữa”.
(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ IV, chương 10, phần Ananda [lược], NXB Tôn Giáo 2001, tr.619)
LỜI BÀN:
Không phải ngẫu nhiên mà sau khi thành
đạo, Thế Tôn đã không vội vàng thuyết pháp, bởi chúng sanh nghiệp
chướng sâu dày, thật khó lãnh hội được tuệ giác duyên khởi – vô ngã. Và
cho đến về sau, không phải với bất cứ ai, Ngài cũng triển khai về điều
này, trừ những trường hợp đủ duyên lành, có thể lãnh hội được. Vì thế,
Ngài đã im lặng trước câu hỏi của du sĩ Vacchagotta và cũng không ít
người khác đương thời.
Tự ngã, linh hồn hay cái tôi trường
cửu bất diệt là tín điều ăn sâu vào cốt tủy của những ai tin tưởng vào
thần linh sáng tạo. Trong vòng luẩn quẩn của tư duy thì chỉ có hai phạm
trù cơ bản là có và không, thật nan giải để nói Không – vô ngã đối với
vấn đề tự ngã.
Nếu nói có ngã lập tức rời vào chấp
thường, nói không có ngã tức rơi vào chấp đoạn, mà chấp thường hay đoạn
cũng đều là tà kiến. Mặt khác, nói có ngã thì trái với sự thấy biết vô
ngã của Phật, nói không có ngã thì làm cho người nghe hoang mang, mất
chỗ bám víu; tốt nhất là im lặng.
Các thiền sư đời sau ứng cơ khai thị
mà không ít người ngộ nhận cho là cuồng thiền, tà đạo thực chất thì cũng
học theo Phật, bởi im lặng không nói như Phật hay “nói nhảm” hoặc đánh
cho một gậy thì cũng giống nhau. Vô ngã là tuệ giác, là chứng ngộ sự
thật chư không phải để hiểu, nhận thức. Vì thế, nếu triển khai về lý
thuyết vô ngã đại để như “giả có, duyên sanh, không thực thể….” Cũng chỉ
là “ngón tay chỉ mặt trăng”.
Do vậy mà Phật im lặng thuyết pháp,
bài pháp vô ngôn này lại hay tuyệt cùng trong trường hợp này. Không phải
có, chẳng phải không, vậy tự ngã là gì? Cứ tư duy về điều ấy đi, là cái
gì thì mỗi người tự cảm nhận lấy, biết đâu sẽ bùng vỡ ra một cái gì đó
vượt ngoài có không của tư duy hữu ngã.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét