I. TỪ MỘT CÂU CHUYỆN...
Ngày xưa, có một chàng thanh niên con nhà Nho giáo. Chàng là người
thông minh, học rộng biết nhiều, nổi tiếng khắp vùng với tài biện luận
thi phú. Chàng tự hào với vốn kiến thức của mình, cho rằng không ai qua
mặt nổi. Vì thế, khi triều đình ban chiếu mở khoa thi, chàng hăng hái
sửa soạn lên đường, chắc chắn sẽ chiếm giải Trạng nguyên. Gia đình và
làng xóm đưa chàng một đoạn đường, ai nấy đều hy vọng một ngày không xa,
được đón chàng vinh quy bái tổ.
Ngày đi đêm nghỉ, hôm ấy chàng đến một khúc sông rộng. Cô lái đò đưa
chàng qua sông, thấy chàng tướng mạo hơn người nên hỏi thăm, biết chàng
lai kinh ứng thí. Chuyến đò ngang khá đông khách, cô lái muốn thử tài
chàng nên thưa:
- Được biết người là bậc anh tài, thiếp tôi muốn được học hỏi thêm. Có câu đối này, thiếp tôi xin người đừng tiếc lời.
Chàng hơi ngạc nhiên nhưng cũng mỉm cười:
- Tôi không ngờ cô nương đây lại rành việc văn chương. Nhưng tôi tin cô nương sẽ không làm khó được tôi đâu. Xin cứ ra câu đối.
Cô lái đò cao giọng đọc:
- “Hỏa tại thạch trung, trầm tích thủy, thiên niên bất tuyệt” (Lửa ở trong đá, chìm dưới nước, ngàn năm không tắt).
Chàng sĩ tử sửng người, không thốt được lời nào. Một phần vì không
ngờ cô lái đò quê lại có kiến thức như thế; nhưng phần lớn, bởi vì...
câu đối quá khó so với tưởng tượng của chàng! Lời văn trau chuốt, ý tứ
lại sâu xa, thật làm người ta bái phục. Đối lại từng chữ thì khả dĩ,
nhưng làm sao hiểu được tận cùng ý nghĩa của câu để có trả lời tương
xứng? Chàng cứ ngồi lặng thinh suy nghĩ mãi, không biết đò vẫn trôi,
không biết đã đến bến và khách đã đi hết. Chàng không biết ai đưa mình
lên bờ, để mình ngồi ở đó. Chàng cũng không biết người ta đến với chàng,
lay gọi chàng, đưa thức ăn cho chàng rồi lần lượt bỏ đi khi thấy chàng
không có một chút phản ứng. Thời gian cứ thế trôi qua, và chàng vẫn ngồi
đó, bất động.
Thân xác chàng như bị tê liệt, nhưng trí óc chàng vẫn quay cuồng theo
câu đối. Câu đối như một tấm lụa đen dài bay lượn trước mắt chàng, cuốn
hút tâm trí chàng vào trong vũ điệu ma quái của nó. Tấm lụa đen càng
lúc càng trải rộng, tốc độ quay càng lúc càng nhanh; chàng thấy mình như
một mảnh kim loại nhỏ bị khối nam châm đen hút chặt, cả tinh thần và
thể xác đều dập vùi tơi tả theo đà quay tít và xoáy tròn của một cơn gió
lốc. Trời đất bỗng nhiên tối sầm, một cái gì siết chặt lấy đầu chàng.
Chàng càng vùng vẫy, nó càng siết mạnh hơn. Cuối cùng, tất cả vỡ tung,
một tiếng nổ kinh hồn vang lên, một cơn đau khốc liệt xé nát toàn thân
chàng. Chàng hét lên một tiếng, và như bị một lực vô hình hút xuống vực
sâu đen ngòm thăm thẳm...
Từ đó, vào những đêm không trăng, người dân trong làng nghe vang lên
từ dòng sông những tiếng kêu kỳ lạ. Tiếng kêu như than thở, như tiếc
nuối, như uất hận, hòa với tiếng nước rạt rào vỗ vào bờ thành một bản bi
ca ghê rợn. Và trong cái hòa thanh bất tận ấy là một giọng vút cao, đọc
lên câu đối của cô lái đò lúc trước. Người làng biết rằng, chàng sĩ tử
vì không tìm được câu đối lại, vừa xấu hổ với cô lái quê, vừa thất vọng
vì sở học của mình chưa đến nơi đến chốn, nên uất ức mà chết. Xác thân
được dân làng mai táng, nhưng hồn chưa siêu thoát vì mối hận lòng còn
canh cánh, xuống Diêm đài vẫn chưa tan. Dân làng nhiều lần rước thầy cầu
siêu, lập đàn giải oan, nhưng không có kết quả.
Rồi một hôm, có một vị tu sĩ đi qua làng. Thấy người từ xa đến, tuy
áo nâu lấm bụi đường nhưng phong cách thoát tục, dân làng đem lòng
ngưỡng mộ. Họ thỉnh vị sư vào nhà làng, ân cần tiếp đãi và nhờ Người tìm
cách trừ mối lo cho họ. Vị sư hỏi chuyện cặn kẽ và đồng ý ở lại làng
đêm đó, nhưng với điều kiện là để Người một mình ở bờ sông, nơi chàng sĩ
tử từng ngồi lúc trước.
Đêm không trăng tối mịt, ngửa bàn tay không thấy. Gió từ lòng sông
thổi lên lạnh buốt. Vị sư ngồi kiết-già tọa thiền. Dân làng tuân theo
lời dặn, không ai dám đến gần bờ sông, nhưng đều thao thức, hồi hộp đợi
chờ. Đêm càng khuya, sương càng rơi nhiều, đẫm ướt vai áo vị sư. Nhưng
người vẫn ngồi đó, an nhiên tự tại, hơi thở như có như không...
Và điều chờ đợi, cuối cùng đã đến!
Trong cái quánh đặc đen ngòm của bóng đêm, dàn hợp xướng quái đản bắt
đầu cất tiếng, lần này càng có vẻ thê lương đến ghê rợn, cô đơn đến não
nùng. Mọi người đều rợn gai óc, nín thở lắng nghe...
Khi bản giao hưởng của tiếng sóng vỗ réo rắt, tiếng gió thổi ù ù,
tiếng kêu than nỉ non đã quyện vào nhau, đưa lên đến thang âm cao nhất,
thì một giọng nam vút lên, rền rĩ từng lời của câu đối ngày nào:
- Hỏa tại thạch trung, trầm tích thủy, thiên niên bất tuyệt
Tiếng vọng của oan hồn chàng sĩ tử vừa dứt, bỗng một giọng nói sang sảng trầm hùng của vị tu sĩ vang lên:
- Nguyệt tận không trung, chiếu thế gian, vạn cổ trường tồn (Trăng ở trên không, chiếu thế gian, muôn kiếp vẫn còn).
Đột nhiên tất cả đều im ắng. Một sự bình an kỳ diệu dường như tỏa
khắp không gian, khiến bầu không khí đượm vẻ thanh lương và tâm hồn mọi
người trở nên lắng dịu. Trăng hạ huyền xuất hiện. Đêm qua dần trong yên
tĩnh, một vẻ yên tĩnh chưa hề có từ khi chàng sĩ tử đến đây và ôm mối
hận qua đời.
Từ ngày ấy, người ta không còn nghe giọng chàng sĩ tử cất lên vào
những đêm tối trời. Người ta biết chàng đã được siêu độ. Còn tung tích
của vị sư, thì không ai rõ, vì buổi sáng sớm, khi họ ra đến bờ sông đã
không trông thấy Người đâu nữa.
II...ĐẾN Ý NGHĨA TÂM THIỀN
Câu chuyện trên, mới nghe qua có vẻ hoang đường, nhưng nếu suy gẫm,
ta sẽ thấy đượm nhiều thiền vị. Chàng sĩ tử luôn tự mãn với kiến thức
uyên bác của mình, nhưng không hiểu đó chỉ là vay mượn từ bên ngoài. Sở
học thế gian không giúp chàng thấu rõ ý nghĩa thâm sâu của câu đối. Lời
văn tuy rõ ràng, nhưng nội dung của nó thì cần phải đi sâu vào đạo lý
mới có thể quán triệt. Vì có lửa trong đá, nên khi hai viên đá cọ vào
nhau mới có lửa phát ra; dù đá chìm dưới nước ngàn năm, lửa trong đá vẫn
không tắt: đây là nghĩa đen của câu đối. Nhưng nghĩa bóng thì ám chỉ
một loại lửa khác, cháy sáng muôn đời, không thấy bằng mắt thường vì
không có hình tướng, không bao giờ hoại diệt dù đá bị vỡ tan. Lửa đó ở
ngay thân tứ đại, ngày đêm chiếu sáng qua sáu căn.
Hiểu được câu trước, ta hiểu luôn câu đối lại của vị sư: Mặt trăng
chiếu sáng trong hư không, muôn đời còn mãi với thế gian. Đứng dưới đất
nhìn lên, có đêm ta thấy trăng sáng, có đêm thấy không trăng. Đó là kết
quả sự vận hành của hệ thống mặt trời - quả đất - mặt trăng trong mối
liên hệ hỗ tương của chúng. Thật sự, mặt trăng luôn hiện hữu, vẫn quay
chung quanh quả đất theo quỹ đạo và chu kì của riêng nó. Cũng như vầng
trăng miên viễn của chúng ta, dù chúng ta quên hay nhớ, dù chúng ta mang
thân xác nào, thọ nghiệp báo nào trong ba cõi, trăng vẫn chiếu soi, vẫn
vạn cổ trường tồn.
Nhận được ngọn lửa hay mặt trăng thường hằng bất diệt trong thân ngũ uẩn vô thường sinh diệt, chúng ta thấu hiểu tâm Thiền.
Gọi là “hiểu”, nhưng không phải hiểu bằng ý thức, nên không liên quan
đến kiến văn quảng bác thế gian, đến khả năng suy tư biện luận. Hiểu ở
đây phải bằng trực giác, bằng kinh nghiệm nội tại từ công phu tu trì
nghiêm mật. Một khoảnh khắc nào đó trong đời, khi khối nghi ôm ấp lâu
nay bùng vỡ, ta trực nhận ra tự tánh thanh tịnh bản lai của chính mình,
thì đến chết vẫn không quên. Có thể xem trường hợp của Thiền sư Hương
Nghiêm Trí Nhàn là một ví dụ điển hình:
Sư Hương Nghiêm là một bậc thông tuệ, tánh thức minh mẫn, nhưng ở
dưới hội của Tổ Bá Trượng nhiều năm vẫn chưa tỏ ngộ lý Thiền. Khi Tổ
mất, Ngài Qui Sơn bảo sư:
- Ta nghe ngươi ở chỗ tiên sư Bá-Trượng hỏi một đáp mười, hỏi mười
đáp trăm. Đó là ngươi thông minh lanh lợi, nhưng ý hiểu thức tưởng là
cội gốc sanh tử. Giờ đây thử nói một câu khi cha mẹ chưa sanh xem!
Sư mờ mịt không đáp được, tìm tất cả sách vở cũng chẳng thấy có câu
trả lời thỏa đáng. Sư than: “Bánh vẽ chẳng no bụng đói”, rồi đốt hết
sách vở, về làm ruộng ở Nam Dương. Một hôm, đang cuốc cỏ trên núi, sư
lượm hòn gạch ném ra ngoài, vô tình hòn gạch trúng cây tre vang một
tiếng “cốc”. Sư chợt tỉnh ngộ phá lên cười. Nhân đó, làm bài kệ:
Nhất kích vong sở tri
Cánh bất giả tu trì
Động dung dương cổ lộ
Bất đọa thiểu nhiên ki.
Dịch:
Tiếng vang quên sở tri
Cần chi phải tu trì
Đổi sắc bày đường cũ
Chẳng rơi vào lặng im.
Xem đó, muốn thể nhập chân lý tuyệt đối, không thể nhờ sách vở bên
ngoài. Bằng kiến thức sở hữu qua kinh sách, ta có thể hiểu thế nào là
mê, thế nào là giác, thế nào là con đường đi đến giác ngộ. Nhưng nếu
muốn thực sự có một bước nhảy từ mê qua giác, và một bước nhảy siêu vượt
cả mê lẫn giác, ta phải tự thân thẩm thấu vào tận cùng nguồn cội của
cuộc sống, phải tự thân lặng sâu vào tận cùng cái thăm thẳm của tâm
thức. Có như thế, ta mới tiếp cận với kinh Phật, không chỉ ở tầng hiển
ngôn, mà còn ở tột cùng tầng vô ngôn huyền nhiệm. Lúc ấy, ta mới thấy
rõ, trên đời không có gì quý bằng bản tâm thanh tịnh sẵn đủ của mình; vì
khi nhận ra và hằng sống với nó, ta đã thoát khỏi cái khổ lớn nhất của
kiếp chúng sanh, là cái khổ luân hồi trong tam giới. Ta mới hiểu rõ, vì
sao đức Phật và chư Tổ có thể hy sinh gia đình, công danh, kể cả mạng
sống của mình để hoàn thành nghiệp lớn. Ta cũng thấu triệt ý nghĩa của
hai câu “Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn” trong bài kệ bảy bước của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta lúc đản sanh, tại vườn Lâm-Tỳ-Ni thuở trước.
Tất cả mọi hàm linh, dù hoàn cảnh chánh báo và y báo khác nhau, đều bình đẳng ở bản tâm, ở cái Ngaõ
này. Bản tâm vốn lặng lẽ mà hằng tri, như chiếc gương có đặc tính chiếu
soi mọi vật đặt trước nó. Gương bị bụi bám không chiếu soi được, nhưng
tính sáng nguyên thủy của nó không bao giờ mất, nên khi lau sạch bụi,
gương trở lại trong sáng như xưa. Chúng ta bị những lớp bụi phiền não
bám khằn vào tâm từ bao đời kiếp, nên không thể tiếp nhận chân lý Thiền.
Khi nhìn một vật, lẽ ra bằng trực giác, mọi người đều biết như nhau;
nhưng do tập khí, nảy sinh thêm vọng niệm khen chê ưa ghét; vọng này
chưa dứt, vọng khác tiếp tục nổi lên. Đầu óc chúng ta vì vậy lúc nào
cũng lăng xăng lộn xộn, tâm ý lúc nào cũng quay cuồng như ngựa mất yên
cương. Nếu biết cách miên mật công phu, gột rửa dần tập khí, một lúc nào
đó chân lý sẽ hiển bày. Lúc tâm hoàn toàn thanh tịnh, cái thấy nghe
hiểu biết của ta không bị tạp lẫn với những ý kiến thức tưởng chủ quan,
cái Biết bình đẳng ấy mới khế hợp với tâm Thiền.
Kinh Viên-Giác, Phật dạy: “Nếu chưa ra khỏi luân hồi mà biện biệt tâm Viên-Giác, thì tánh Viên-Giác kia cũng đồng với lưu chuyển”. Nếu
ta đem tâm sanh diệt mà biện luận về chỗ vô sanh, thì chỗ vô sanh ấy
cũng trở thành sanh diệt. Mây bay thấy trăng chạy, thuyền đi thấy bờ dời
; thật ra trăng và bờ đâu có dời chỗ, do cái thấy sai lầm điên đảo của
chúng sanh nên sự thật bị lệch lạc. Chúng ta luôn sống bằng ý thức, nên
nhìn sự vật qua lăng kính của phân biệt, tưởng tượng, suy lường; từ đó
không nhận chân được thực tại, không thấy được bản chất của muôn pháp.
Mặt khác, còn ý thức thì bản ngã còn có cơ hội xen vào trong hành vi
ngôn ngữ, kể cả trong công phu tu tập. Nhiều thiền sinh trải qua một
thời gian hành trì, có vài kết quả khả quan, tự cho mình có căn tánh hơn
người. Cũng có thiền sinh, nhờ thông minh lanh lợi, có nhiều kiến giải
về Thiền, hiểu lầm giác ngộ là chuyện dễ dàng, cho mình đã xong việc.
Bản ngã vì thế lại càng tăng trưởng, không chịu hạ mình học hỏi, không
tinh cần hạ thủ công phu. Lần lần có chiều hướng đi xuống, cuối cùng đọa
lạc. Đây là điều rất đáng tiếc. Cho nên cần hiểu, giác ngộ không phải
là kết quả của sự mong cầu, không phải là hành vi của ý thức, càng không
phải là chuyện đơn giản đạt đến trong một sớm một chiều. Phải có đời
sống thiền tập miên mật, phải có ý chí kiên cường, tinh ròng không tạp,
phải hội đủ túc duyên, chúng ta mới có cái nhìn sự vật không qua niệm
khởi, không qua tư duy, không chìu uốn theo các pháp và sanh tâm trên
đó. Lúc ấy, ta mới biết giác ngộ là thế nào.
Khi vua Lý Thái Tông đến viếng Thiền sư Thiền Lão, vua hỏi Ngài:
- Hòa thượng trụ núi này đã được bao lâu?
Sư đáp:
Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu
Dịch:
Chỉ hay ngày tháng này
Biết chi xuân thu trước.
Vua lại hỏi:
- Hàng ngày Hòa thượng làm gì?
Sư lại đáp bằng hai câu kệ:
Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.
Dịch:
Trúc biếc hoa vàng nào cảnh khác
Mây bay trăng sáng hiện toàn chân.
Lời đáp của Thiền sư, mới nghe qua tưởng như không liên hệ gì đến câu
hỏi, nhưng thật sự chứa đựng yếu chỉ nhà Thiền. Người đã sống với bản
tâm, nói lời nào cũng khế hợp với đạo lý. Những năm tháng đã qua, Ngài
không cần biết đến; cũng như những gì sẽ tới, Ngài chẳng cần bận tâm.
“Chỉ hay ngày tháng này” là tinh thần Chánh niệm. Quá khứ
không còn, tương lai chưa đến, tất cả đều chỉ là huyễn ảo, như hoa đốm
trong hư không. Ngài luôn an trú tâm vào giây phút hiện tại, vào thời
điểm tại-đây và bây-giờ. Bởi vì, khi thể nhập thánh trí tự giác, mọi thời gian và mọi không gian đều dung thông trong một sát-na vĩnh cửu.
Đây không phải là cảnh giới do ngôn thuyết hay suy luận mà biết; đây là
sự thực chứng của một bậc đã giác ngộ tâm Thiền. Khi ánh sáng trực giác
bừng lên, mọi vật mọi cảnh đều hiển hiện tự tánh bình đẳng, tuy huyễn
mà vẫn ở trong Như tánh. Cho nên, trúc biếc hoa vàng hay mây bay trăng sáng nào đâu cảnh khác, tất cả đều hiển lộ toàn chân.
Như vậy, học Thiền là học vào giờ phút hiện tại, tu Thiền là tu vào
giờ phút hiện tại, chứng Thiền cũng chỉ là chứng vào giờ phút hiện tại
ấy mà thôi. Nhưng cái gì học, tu và chứng?- Đó là TÂM. Ngoài tâm, không
có gì khác. Tâm sẵn đủ ở mọi loài, luôn lặng lẽ mà tỏ sáng. Khi trực
nhận tâm bản lai, ta mới biết “tu, học, chứng” thật ra chỉ là gượng nói,
vì tâm ấy chính là mình, chưa bao giờ thiếu vắng. Thiền muốn chỉ rõ cái
sẵn đủ này ở mọi người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo hay ý thức
hệ. Trọng tâm tu hành của nhà Thiền là phải nhận ra tự tánh, tức hồi
phục chức năng nguyên thủy của chính mình. Có thể nói, kiến tánh là mục đích tối hậu của thiền giả, chưa kiến tánh thì chưa phải là Thiền!
Một số thiền sinh thắc mắc: Vì sao không gọi “Vô tâm Thiền” mà gọi “Tâm Thiền”? Chúng ta thường nghe câu kệ trong bài phú Cư trần lạc đạo của Sơ tổ Trúc Lâm:
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
Khi đối duyên xúc cảnh, nếu không khởi niệm phân biệt khen chê ưa ghét thì không cần hỏi chi đến Thiền, vì vô tâm đã
là Thiền rồi. Cảnh giới vô tâm này tương đương bức tranh số 8 trong
mười bức chăn trâu của Thiền tông. Hành giả không còn ý niệm đối đãi nên
phàm Thánh đều không, chẳng chán Ta-bà chẳng cầu Tịnh độ. Khi Sa-di Cao
đến viếng Ngài Dược Sơn, Ngài hỏi:
- Ta nghe Trường An rất náo loạn, ngươi biết không?
Sa-di Cao thưa:
- Bạch Hòa thượng, nước con an ổn.
“Nước an ổn” có phải đất nước của Sa-di Cao không náo loạn, hay ông muốn ám chỉ điều gì? “Hai đầu không dính, ngàn mắt khó xem”. Khi tâm không vướng mắc trần cảnh, không kẹt hai bên đối đãi thì mắt Phật cũng không nhìn thấy!
Nhưng nếu chỉ đạt được trạng thái lặng lẽ thanh tịnh thì chưa phải là
cứu cánh của Thiền tông. Chủ đích của Thiền là trở về thể tánh chân
thật lặng lẽ mà thường biết, cảnh giới của tâm Thiền. Cho nên:
Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm du cách nhất trùng quan.
Dịch:
Chớ bảo vô tâm ấy là đạo
Vô tâm còn cách một lớp rào.
Muốn vượt lớp rào ấy, hành giả phải qua “một cơn chết lớn” (đại tử nhất phiên) hay “tuyệt hậu tái tô”.
Buông tay cho chết một lần, thoát xác khỏi cái tôi hư giả, chặt đứt mọi
xiềng xích mối manh vọng tưởng, chừng đó sống lại, chừng đó trở về
nguồn. Hành giả chợt nhận ra “Am trung bất kiến am tiền vật, Thủy tự mang mang hoa tự hồng”. Trong
am chẳng thấy vật gì khác ngoài cái am, tâm Thiền bao trùm pháp giới,
có gì khác ngoài tâm? Mọi vật đều trở về bản vị của nó, nước tự nó mênh
mông, hoa tự nó nở hồng. Đây là cái thấy như thị, khi hành giả thể nhập
tâm Thiền. Từ đó, dù cuộc đời chịu bao gian truân thử thách, dù thân tứ
đại chịu nhiều bệnh tật đọa đày, các Ngài vẫn an nhiên tự tại, như Thiền
sư Từ Minh nói “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”, hoặc như Ngài Huyền Giác trong bài ca Chứng đạo:
Hành diệc thiền, tọa diệc thiền
Ngữ mặc động tịnh thể an nhiên
Túng ngộ phong đao thường thản thản Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn.
Trúc Thiên dịch:
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền
Nói im động tịnh thảy an nhiên
Phỏng gặp gươm đao thường nhẹ hững
Ví nhằm thuốc độc vẫn bồng tênh.
Khi đã trở về sống với cái tịch tĩnh vĩnh hằng, với quê nhà muôn
thuở, thì bất cứ lời nói cử chỉ nào cũng là Thiền. Không phong ba bão
táp nào, không độc dược gươm đao nào ảnh hưởng được bản tâm không hình
tướng ấy. Nếu còn thấy tâm là đối tượng tức còn khoác cho nó một tướng
trạng, tâm ấy còn trong vòng sinh diệt. Nếu thấu triệt bản thể của tâm
là vô nhất vật, không tướng mạo mà hằng hữu hằng tri, thì không còn chỗ
nào dính bụi. Hiểu được điều này, ta mới thẩm thấu tột cùng ý nghĩa của
bài kệ trong phẩm Phổ Môn - kinh Diệu Pháp Liên Hoa:
Giả sử sanh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quan Âm
Hầm lửa biến thành ao
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quan Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian.
Hiểu theo sự, khi chúng sanh bị tai nạn quẩn bách, một lòng cầu
nguyện Bồ-tát Quan Âm, Ngài sẽ dùng thần lực cứu vớt. Nhưng chúng ta
không dừng lại ở nghĩa đen bên ngoài, mà cần rõ nghĩa lý sâu xa Đức Phật
muốn dạy: Quan Âm là phản văn văn tự tánh - trở về nghe lại
tánh nghe của chính mình. Sống với tánh nghe là giác tri, là hiện tướng
của tánh giác, của tâm Thiền. Khi đã thuần thục, không còn phân biệt
năng giác - sở giác, chỉ còn tự tánh thanh tịnh thường tri. Mọi vọng
niệm đối đãi dứt bặt là phá được tưởng ấm, tức phá được nhân
đau khổ. Do vậy, tất cả đau khổ hoạn nạn trên đời không còn làm hành giả
vướng bận, dù xảy đến cho bạn bè, người thân hay cho chính bản thân
mình.
III. CON ĐƯỜNG THỂ NHẬP TÂM THIỀN:
1/ Kinh Niệm xứ và Thiền Nguyên thủy
Kinh Niệm xứ là một bài kinh phổ thông, trình bày một cách căn bản về
Thiền Minh Sát Tuệ (Vipassana), có tầm quan trọng đặc biệt trong hệ
thống kinh điển Nguyên thủy. Nội dung của kinh là chánh niệm và quán niệm trên bốn lĩnh vực thân - thọ - tâm - pháp (*). Trong
phạm vi chương này, chúng ta không đi sâu vào chi tiết của các kinh, mà
chỉ nhằm làm sáng tỏ tính nhất quán trong những lời Phật dạy, dù người
sau phân chia làm nhiều hệ thống, tông phái. Sự phân chia ấy thật cần
thiết để phù hợp với căn cơ, trình độ của người học Phật, nhưng tất cả
đều nhắm đến một mục tiêu tối hậu, là giác ngộ và giải thoát sinh tử.
Quán niệm trên các pháp, ta thấy rõ chúng do nhân duyên sinh. Vì do
duyên sinh nên tự tánh của chúng là không, còn sự hiện hữu chỉ là tạm
có. Không ở đây nghĩa là không có tự thể, chứ không phải ngoan không. Đó chính là Vô ngã tánh, Bình đẳng tánh, Không tánh
của vạn pháp. Nhận ra Tánh không tức ta có cái nhìn thấu thể đối với
vạn pháp, có sự bình đẳng giữa mình và mọi vật; từ đó, không còn nhận
thức lầm lẫn về tự thân và cuộc đời.
Thực hiện tinh thần Phản quan tự kỷ, Đức Phật dạy chánh niệm
và quán niệm trên thân, thọ và tâm. Về thân, quan trọng nhất là theo
dõi và tuệ tri trên hơi thở. Thở vào - ra, dài - ngắn ta đều biết rõ,
biết mà không can thiệp, không sanh tâm.
Giai đoạn đầu là liên hệ giữa tâm và hơi thở; sau đó, hơi thở là gạch
nối giữa thân và tâm. Cuối cùng là hợp nhất thân tâm. Khi tuệ tri “có thân đây”, chúng ta đã trực diện với thân trong giờ phút hiện tại, bằng cái thấy như thị. Chủ thể nhận thức là tâm hay biết và đối tượng nhận thức là thân bị biết trở thành nhất như. Đây là tri kiến như thật, diệu dụng của bản tâm thanh tịnh thường nhiên.
Đối với các cảm thọ, phát sinh từ sự giao thoa giữa căn và trần, Phật
dạy chúng ta theo dõi và tuệ tri mà không phát triển tư duy về chúng.
Cảm thọ luôn thay đổi, lúc sinh lúc diệt, còn cái tuệ tri trên cảm thọ
thì không bao giờ đổi thay. Đây là phương tiện để nhận ra tâm thể thường
hằng.
Khi quán niệm trên mười sáu loại tâm hành, chúng ta thấu rõ hành tung
bất định và bản chất hư ảo của chúng. Tuệ tri tất cả vọng tâm tức ta đã
duy trì tự tánh hằng biết, để nắm bắt đương niệm ngay trong cuộc vận
hành, ngay trong dòng sinh diệt của chúng. Tuệ tri ở đây chính là cái
biết thâm nhập, cái biết bằng trực giác không qua ý thức phân biệt nhị
nguyên, cái biết Tri kiến vô kiến, ý nghĩa của tự tánh hằng tri.
2/ Các kinh điển Đại thừa
Chúng ta đều biết, tất cả những điều Phật dạy trong suốt 49 năm
thuyết pháp đều nhằm giúp chúng sanh thoát khỏi phiền não và sanh tử.
Nhưng tùy căn tánh mà chúng sanh có thể chọn lựa cách tu hành thích hợp,
tựu trung gồm 5 phương tiện chính, như năm loại xe đưa chúng sanh đến
bến bờ tương ứng. Đó là Ngũ thừa Phật giáo:
1. Nhơn thừa: Tu năm giới, giúp chúng sanh tiếp tục trở lại làm người, tránh vào bốn cõi Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A-tu-la.
2. Thiên thừa: Tu thập thiện, giúp chúng sanh vượt khỏi tứ
châu (Nam-thiệm-bộ châu, Đông-thắng-thần châu, Tây-ngưu-hóa châu,
Bắc-câu-lô châu), sinh lên cõi Trời.
Hai đường tu này vẫn còn trong vòng luân hồi, chưa phải thật sự giải thoát.
3. Thanh văn thừa: Tu pháp Tứ đế, giải thoát sanh tử, chứng A-la-hán.
4. Duyên giác thừa: Tu mười hai nhân duyên, giải thoát sinh tử, thành Bích Chi Phật.
Thanh Văn và Duyên Giác thừa đã liễu thoát tam giới, nhưng nặng phần
tự lợi mà xem nhẹ lợi tha, nên tạm gọi là Tiểu thừa (cổ xe nhỏ).
5. Bồ-tát thừa: Cầu đạo vô thượng Bồ-đề, tu Lục độ vạn hạnh,
nguyện độ tất cả chúng sanh. Vừa tự lợi vừa lợi tha nên được gọi là Đại
thừa (xe lớn).
Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật chỉ dạy cặn kẽ: Dù trước đây Phật có
nói nhiều pháp khác nhau, nhưng đó chỉ là những phương tiện dẫn dắt
chúng sanh từng bước đến mục đích cuối cùng. Mục đích này cũng là bản
hoài của chư Phật - khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Chỉ
có một Phật thừa, không có thừa nào khác. “Phật tri kiến” sẵn đủ nơi
tất cả chúng sanh, không phân biệt giống loài, giới tính, căn cơ, tuổi
tác. Khai và thị (mở ra và chỉ cho thấy) Phật tri kiến là việc làm của chư Phật Bồ-tát, còn ngộ và nhập (nhận
ra và sống với) tánh giác là vấn đề của chúng sanh, mỗi cá nhân phải tự
đảm đương lấy. Tánh giác ở ngay nơi thân thất đại; muốn nhận ra nó,
phải thu nhiếp mọi vọng tưởng, như muốn thấy Phật Đa Bảo trong tháp bảy
báu, phải nhóm tất cả Phật phân thân ở mười phương về một chỗ.
Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật chỉ rõ hơn. Từ câu hỏi đầu tiên cho tôn giả A Nan: “Vì lý do gì ông xuất gia?” đưa
đến bảy chỗ hỏi tâm, Phật lần lượt phá tất cả các chấp giả, đồng thời
chỉ cái chân thật. Từ tánh thấy ví như mặt trăng thứ hai, Phật dạy về
Như Lai Tạng. Đây chính là tâm thể, là mặt trăng thật. Lối chỉ thẳng này
dành cho hàng thượng căn đốn ngộ, có khác gì “trực chỉ nhân tâm” của
nhà Thiền? Khi nhận ra bản tâm tức đã kiến tánh, hành giả khởi tu bằng
phương tiện của Bồ-tát Quán Thế Âm, phương tiện thù thắng và thích hợp
nhất đối với chúng sanh cõi Ta-bà: Hằng sống với tánh nghe mà không dính
mắc với tiếng bị nghe (phương pháp Nhĩ căn viên thông hay Phản văn văn tự tánh); khi thuần thục thì năng và sở đều dứt, chỉ còn một thể thanh tịnh như như - ý nghĩa của tâm Thiền.
Đọc kinh Kim-Cang, chúng ta thoạt nhớ câu chuyện ngộ đạo của Lục Tổ
Huệ Năng ở Trung Hoa và vua Trần Thái Tông của Việt Nam. Toàn bộ bản
kinh nhằm trả lời hai câu hỏi của tôn giả Tu Bồ Đề: “Khi người nam lành, người nữ lành phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm sao an trụ? Làm sao hàng phục tâm ấy?”. Phật dạy, muốn hàng phục tâm, phải đưa mọi vọng tưởng (chúng sanh tâm) vào chỗ vô sanh mà không chấp bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Muốn
an trụ tâm, phải buông xả hết sáu trần, ngay nơi không có chỗ dính mắc
mà sanh tâm Vô thượng Bồ-đề. Như vậy, người phát tâm cầu thành Phật,
phải thực hành theo tinh thần: “Ngoài không dính mắc các trần, trong không theo vọng tưởng”, ngay đó liền nhận ra tánh giác bất sanh bất diệt của chính mình. Lục Tổ và vua Trần nghe đến đoạn này liền nhận được yếu chỉ.
Trong kinh Viên-Giác, ngay chương đầu đức Phật đã nói thẳng về nhơn
địa tu nơi Viên Giác của Như Lai: Chỉ cần biết tất cả pháp như hoa đốm
trong hư không, liền không bị lưu chuyển trong sanh tử. Tựu trung chỉ có
một chữ BIẾT- biết bằng trực giác, biết không qua trung gian suy luận,
không phân ranh người biết và đối tượng biết. Ánh sáng trực giác thẩm
thấu vào muôn pháp, biết chúng đều là huyễn. Biết huyễn thì lìa huyễn,
lìa huyễn liền là giác. Đây là pháp môn đốn siêu phương tiện, dành cho
các bậc thượng căn.
Đối với kinh Lăng-Già, bộ kinh được dùng làm tâm ấn trong nhà Thiền, tư tưởng chủ đạo thật rõ ràng: “Dĩ tâm vi tông, dĩ vô môn vi pháp môn” (Lấy
tâm làm chủ, lấy cửa không làm cửa pháp). Người tu thấy tất cả các pháp
đều như mộng huyễn, nên tất cả chấp trước đều xa lìa, ngay cả cái chấp
vào Phật năng giác và Niết-bàn sở giác. Thấu triệt Bình-Đẳng-Tánh của muôn pháp, hành giả không dính mắc hai bên; từ đó nhận ra Mâu-ni tịch tĩnh, tức Pháp thân thường trụ.
Một số bản kinh chúng ta vừa khảo sát, cho thấy một điều quan yếu: Dù
đức Phật dùng phương tiện gì, dùng cách diễn đạt nào, dùng tên gọi ra
sao, cũng chỉ có một chủ đích duy nhất: chỉ cho thính chúng nhận được
bản tâm tịch tĩnh hằng giác của mỗi người. Bản tâm vốn sẵn đủ, không có
hình tướng, trùm khắp pháp giới, tĩnh lặng mà chiếu soi. Vì không hình
tướng nên không chuyển dịch theo không gian và biến đổi theo thời gian;
vì trùm khắp nên không đến không đi; vì tĩnh lặng mà chiếu soi nên không
có gì là chẳng biết. Đức Phật dùng rất nhiều tên để gọi và nhiều lời để
diễn tả, chỉ vì quá từ bi, muốn chúng sanh bước đầu làm quen với một
cái không tên và không diễn tả được bằng lời. Sau này, các vị Thiền sư
tùy duyên mà sử dụng mọi phương tiện khác nhau, cũng chỉ nhằm mục đích
giúp môn đệ nhận ra bản tâm ấy.
3. Thiền Đốn ngộ
Đoạn vấn đáp sau đây giữa một Thiền khách với Quốc sư Huệ Trung có thể tóm lược toàn bộ pháp tu của nhà Thiền:
Tăng hỏi (H): Làm sao được tương ưng?
Quốc sư đáp (Đ): Chẳng nghĩ thiện ác, tự thấy Phật tánh.
H: Thế nào là Phật?
Đ: Tức tâm là Phật
H: Tâm có phiền não chăng?
Đ: Tánh phiền não tự lìa.
H: Chẳng rơi vào đoạn diệt sao?
Đ: Đoạn phiền não là Nhị thừa, phiền não chẳng sanh gọi là Đại Niết-bàn.
H: Ngồi thiền, quán tịnh, việc ấy thế nào?
Đ: Vốn chẳng nhơ sạch, đâu cần khởi tâm quán tướng tịnh.
H: Tức tâm là Phật, có cần tu muôn hạnh chăng?
Đ: Chư Phật đều đủ Phước và Trí trang nghiêm, đâu có bác không nhân quả.
“Chẳng nghĩ thiện ác, tự thấy Phật tánh” là yếu chỉ Thiền
Tông, theo tinh thần của Lục Tổ khai thị cho Thượng Tọa Huệ Minh thuở
trước. Thiện-ác là tượng trưng cho tất cả tâm phân biệt hai bên
(phải-trái, tốt-xấu, đúng-sai, hay-dở...). Do phân biệt nên có ưa ghét,
của ta của người... Đây là đầu mối của sanh tử. Tâm thường lặng lẽ,
không dính mắc, luôn tỉnh luôn giác, ấy là Phật tánh tự hiển bày. Tâm ấy
tức Phật, chẳng phải tìm cầu bên ngoài.
Thượng tọa Bằng-Nhan một hôm tham vấn Thiền-sư Thần Lộc:
- Thế nào là tâm xưa nay?
Sư gọi:
- Bằng Nhan!
Thượng tọa Nhan ứng thinh:
- Dạ.
Sư bảo:
- Cùng lão tăng uống trà đi!
“Tâm xưa nay” ở chỗ lời gọi tên Bằng-Nhan hay ở chỗ uống trà? Nếu
khéo từ cửa Quan Âm thể nhập tự tánh, thì có thể cùng Thiền sư uống trà
Triệu Châu. Nếu mờ mịt chẳng hiểu gì, đã bị đầu lưỡi Hòa thượng lừa, dẫn
đi xa tít.
Vậy thì, tìm giác ngộ ở đâu? Thiền Đốn Ngộ chủ trương chỉ thẳng tâm
người ngay thực tại hiện tiền, tác động vào sáu căn. Quá khứ là những gì
đã qua, tương lai thì chưa đến, đều không thực có. An trú trong hiện
tại, chánh niệm tỉnh giác trong mọi nơi chốn, mọi thời khắc, mới khế hợp
với tâm Thiền.
Thế nào là “Tánh phiền não tự lìa”? Hoàng-Bá-Hy-Vận trong Uyển Lăng lục đã nói: “Ngay khi ông biết vọng khởi, biết ấy chính là Phật”. Tâm
biết có vọng, biết có phiền não là tâm hằng hữu tỉnh giác. Phiền não là
khách, tự đến tự đi; tâm tỉnh giác là chủ, chẳng sanh chẳng diệt. Nếu
thấy có phiền não để đoạn, Niết-Bàn để chứng, đó là cái thấy hai bên của
Nhị Thừa. Không sanh không diệt, không đến không đi là Đại Niết-Bàn, là
Như Lai không từ đâu đến, chẳng đi về đâu.
Lời Quốc Sư đáp lại câu hỏi: “Ngồi thiền quán tịnh...” khiến chúng ta nhớ đến câu chuyện mài gạch không thành gương của Ngài Nam Nhạc, lúc khai thị cho Mã Tổ Đạo Nhất: “Ông
học ngồi thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi thiền, thiền chẳng phải
ngồi nằm. Nếu học ngồi Phật, Phật không tướng cố định, không trụ các
pháp, cũng chẳng lấy bỏ. Nếu chấp tướng ngồi, chẳng đạt lý kia”. Nếu
đã sống bằng tâm Thiền, thì mọi giờ phút, mọi oai nghi đều là Thiền,
không chỉ có tướng ngồi. Bản tâm luôn thanh tịnh, không một vật thì
không có nhơ sạch, vốn tự tánh định, tự tánh huệ. Nếu khởi quán tịnh tức
có phân chia năng quán sở quán, ấy đã xa rời tự tánh.
Ở đây, chúng ta cần lưu ý một điều: Hiểu theo lý, Phật tánh sẵn đủ ở
muôn loài, không phải tìm cầu mới thấy. Chúng sanh do quên tánh giác nên
tạo nghiệp và trầm luân; nếu thầm nhớ và sống với tánh giác thì đồng
đẳng với chư Phật. Vậy, mê (quên) là chúng sanh, ngộ (nhớ) là Phật, thật
là đơn giản! Do hiểu quá dễ dàng và đơn giản như thế, chúng ta cứ ngỡ
thành Phật tác Tổ là chuyện một sớm một chiều. Từ đó không tinh cần công
phu, bài bác lý nhân quả, xem thường muôn hạnh. Đây là điều lầm lẫn lớn
lao!
Trong thời đại khoa học kỹ thuật tiên tiến, trí thông minh của con
người cũng phát triển. Chúng ta dễ dàng được đọc, được nghe rất nhiều
kinh lục và lời giảng của các bậc cao tăng. Chúng ta dễ dàng thấu hiểu
những vấn đề uyên áo tế nhị của Thiền gia, mà người xưa đôi khi mất một
thời gian dài mới lãnh hội được. Chúng ta cũng dễ dàng rõ biết mình có
tánh giác bản lai, và biết nhiều phương tiện thể nhập tự tánh. Nhưng đó
chỉ là kết quả của suy luận, phân tích, tư duy nhờ ý thức, nên lúc nhớ
lúc quên; lúc vô sự tưởng mình là Thánh, khi có chuyện bất như ý xảy ra
thì mình vẫn là một chúng sanh với đầy đủ phiền não mê lầm! Ngài
Nam-Nhạc Hoài-Nhượng là bậc tu hành chân chính, đã có chỗ giải ngộ nơi
Quốc sư An. Thế mà, để trả lời câu hỏi của Lục Tổ: “Đem vật gì đến?”, Ngài phải mất đến 8 năm ôm ấp mối nghi, mới thưa được một lời:
- Nói giống một vật tức chẳng trúng
Vấn đề cốt lõi ở đây là, tám năm trời ròng rã, Ngài chỉ chuyên chú
với một nghi tình duy nhất cho đến khi bùng vỡ. Phải có sự trực nhận
bằng trực giác mới có chuyển hóa tận gốc rễ, mới hoàn toàn sống được với
bản tâm, mới có thể một bước không lìa. Cho nên, khi Lục Tổ hỏi câu thứ
hai: “Có tu chứng chăng?”, Ngài trả lời ngay: “Tu chứng chẳng phải không, nhiễm ô không thể được”. Bản tánh thanh tịnh vốn sẵn đủ, vốn chẳng thể nhiễm ô, nhưng phải có công phu tu trì miên mật mới mong có kết quả.
Khi đã kiến tánh, tức mới đi được nửa đoạn đường. Việc tu hành đã nhẹ
nhàng, nhưng cũng phải tinh cần bào mòn tập khí, chuyên tu muôn hạnh.
Người xưa có câu “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp”. Tuy trong lý chân thật không nhận một mảy trần, nhưng trong cửa muôn hạnh thì chẳng từ một pháp nào. Đây là ý nghĩa của Phước-Huệ song tu. Phước
đức sung mãn, hành giả chuyển được nghiệp xấu, tránh bớt chướng duyên,
tạo điều kiện cho trí huệ tăng trưởng. Càng có trí huệ, hành giả càng có
cơ hội thể nhập lý như thật. Đức Phật được tôn xưng là Bậc Lưỡng túc tôn hay Minh Hạnh túc, Vì
Ngài đã thành tựu viên mãn Phước và Trí. Vì thế, những hàng hậu học
chúng ta, nếu tự xét thấy chưa đủ hai điều kiện trên, chớ vội bác không
nhân quả, làm người vô sự!
Và đây là hai câu nói của hai vị Thiền sư, có thể minh chứng cho cái
tri kiến qua từng giai đoạn trong đời tu: Thiền sư Duy Tín nói: “Trước
ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông. Khi gặp Thiện tri thức chỉ
dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Sau ba mươi năm, tôi thấy
núi sông vẫn là núi sông.” Thiền sư Vân Môn đưa cây gậy lên trước chúng, bảo: “Phàm
phu gọi nó là thật, Nhị thừa phân tích gọi nó là không, Duyên giác gọi
là huyễn có, Bồ-tát thì đương thể tức không. Thiền gia thấy cây gậy nói
là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến”. Phàm
phu chưa biết đạo, sống trong mê mờ, nhận cái giả cho là thật nên vướng
kẹt vào các pháp. Vì thế, nhìn núi sông hay cây gậy đều cho là thật có.
Đối với người tu, tùy công phu quán chiếu các pháp mà có cái thấy khác
nhau, dù tựu trung đều biết các pháp không thật. Hàng Thanh Văn thấy các
pháp vô thường, nay còn nhưng mai mất. Duyên Giác quán các pháp do nhân
duyên sanh, thấy chúng không có tự thể, nên là huyễn có. Các bậc Bồ-tát
thấu tột lý nhân duyên, nhận ra tự tánh không của các pháp nên ngay đó
biết rõ chúng là không. Cái thấy của Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát đều
thấu rõ bản chất các pháp là vô thường, duyên sinh, vô ngã; nhưng các
Ngài nhìn sự vật theo khái niệm chủ quan của mình mà chối bỏ sự hiện hữu
của các pháp.
Đối với các Thiền sư, các Ngài nhìn muôn sự muôn vật bằng tâm như như
của chính mình. Đây là cái thấy trong trạng thái vô tâm, không hủy
hoại, không sanh tâm trên các pháp, và trả các pháp về ngay bản vị của
chúng. Đây là cái thấy trút sạch khái niệm vọng chấp, không phân biệt
người thấy và vật bị thấy. Đây là cái thấy đúng như thực tại đang là, nên có tên “như thị tri, như thị kiến”. Giai đoạn này được các Ngài diễn tả bằng vài từ tuy rất nhẹ nhàng nên thơ “thấy cây gậy nói là cây gậy”, hoặc “thấy núi sông vẫn là núi sông”, nhưng đã bao hàm đầy đủ ý nghĩa tâm chứng của mình!
Thiền là tâm của Phật, kinh là miệng của Phật. Đức Phật tâm-khẩu
tương ưng, nên ý kinh không khác yếu chỉ của Thiền. Chúng sanh có tám
vạn bốn ngàn trần lao phiền não, thì Đức Phật cũng có tám vạn bốn ngàn
phương thuốc điều trị, nên gọi Ngài là Bậc Vô Thượng Y Vương. Tuy nhiên,
những phương thuốc ấy chỉ trị được triệu chứng của bệnh; còn muốn điều
trị tận gốc, tức dứt tuyệt mối manh sinh tử, phải có loại thuốc đặc
hiệu, độc đáo. Sau 49 ngày đêm thiền định, Đức Phật đã tìm ra loại thuốc
ấy và đã trị lành bệnh cho mình. Sau đó, như một người thầy tận tụy,
Ngài dạy lại cho chúng sanh, không giấu giếm điều gì. Rất nhiều môn đệ
của Ngài, theo đúng lời Ngài dạy, cũng đã tự chữa khỏi bệnh, thoát ly
sanh tử. Chúng ta ngày nay, có những cơ sở để tin lời Phật dạy là chân
lý, tin con đường Ngài đi có thể đưa đến giác ngộ giải thoát, thì còn
chần chờ gì nữa mà không mau tiến bước theo lộ trình của Ngài?
Kết Luận
Trong tương đối, khi chúng ta chưa hiểu gì về Thiền, thì tất nhiên
phải nhờ kinh sách. Nhưng nói về lý tuyệt đối, học Thiền không phải y cứ
vào văn tự. Mỗi chúng ta đều sẵn có tự tánh thanh tịnh, nhưng do chạy
theo trần cảnh khởi sinh vọng thức, nên đánh mất tính cách rỗng lặng và
hằng tri của tự tánh, và đánh mất trạng thái như thị của muôn pháp. Vì
thế, muốn khế hội chân lý Thiền, chúng ta phải biết buông bỏ mọi tri
thức vay mượn, mọi kiến chấp phân biệt nhị biên. Khi không còn khởi niệm
thiện-ác tốt-xấu... mà vẫn biết tường tận bản chất của mọi sự vật hiện
tượng, ta sẽ rõ thế nào là Thiền, ta mới chợt hiểu: Niết-Bàn cũng chỉ ở
tại đây và bây giờ, không cần giở chân mà đến!
Thiền là nhận ra chân tâm thường trụ luôn có mặt trong mọi hữu tình,
nên mọi hàm linh đều có khả tính giác ngộ - Thiền không như Triết học
chia thực tại ra nhiều thành phần, rồi dùng ý thức chủ quan áp đặt lên
các pháp. Thiền cũng không phải là tôn giáo với ý niệm mặc khải cứu rỗi,
với lòng tin về một đấng thần linh có quyền ban phước giáng họa. Thiền
trả về cho con người quyền làm người, làm chủ chân chính nhất, bằng một
thông điệp cho muôn đời: Mọi người có quyền quyết định số phận mình, tự
bước đi bằng đôi chân của mình, tự nhận trách nhiệm về mọi nghiệp duyên
mình đã tạo ra từ thân miệng ý. Và trên tất cả, mỗi người đều có quyền
thành Phật tác Tổ hay trầm luân trong ba cõi sáu đường.
Những người học Thiền, trên những bước khởi đầu có thể giống nhau;
nhưng càng về sau, sự sai biệt càng rõ. Có người làu thông kinh luận,
ứng đối tài tình, nhưng không chú trọng vào thực hành nên suốt đời cứ
dẫm chân tại chỗ. Có người dụng công trên sự hiểu biết của mình, nhưng
ít nhiệt tâm tinh cần nên không thu được kết quả bao nhiêu; đến khi gặp
chướng duyên dễ sinh nghi ngờ, chán nản. Có người lại nóng vội, thấy
mạng sống quá mong manh nên gắng sức hành trì đến quên ăn quên ngủ; lâu
ngày phát sinh bệnh tật, gây trở ngại cho việc tu hành. Tất cả đều không
theo đúng tôn chỉ của Thiền tông. Mục đích tối hậu của đời tu là giác
ngộ và giải thoát - giác ngộ tức thầm nhận tánh giác bản lai của chính
mình, giải thoát là vượt khỏi phiền não sanh tư û- Muốn được như vậy,
trước tiên hành giả phải lắng sâu tâm thức để nghe và hiểu lời dạy của
Thầy Tổ, rồi chiêm nghiệm những chỗ uyên áo diệu mầu của kinh lục. Sau
đó, áp dụng vào công phu một cách miên mật và đúng pháp. Lý thuyết và
thực hành bổ sung cho nhau, trình độ tâm linh ngày càng tăng tiến; khi
đủ thời tiết nhân duyên, hành giả thể nhập tâm Thiền. Đây là thời điểm
kiến tánh, hành giả đi được nửa đoạn đường. Giai đoạn này, Thiền gọi là:
“Kiến tánh khởi tu” hay “Đốn ngộ tiệm tu”.
Vì tập khí phiền não đã tích lũy từ vô lượng kiếp, nên giác ngộ rồi,
hành giả vẫn phải trải qua một thời gian tinh tấn hành trì, trưởng dưỡng
Thánh thai. Ngài Trần Tôn Túc nói: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ”. Lúc
chưa thấy Đạo, hành giả luôn canh cánh bên lòng một mối nghi, hoặc luôn
theo dõi từng vọng niệm sanh diệt của mình, không dám lơi lỏng, không
dám lãng quên, như đứa con hiếu thảo lo đám tang cho mẹ. Nhờ Thiện tri
thức dùng phương tiện khai thị thích hợp, hoặc nhờ một cơ duyên kỳ đặc
khiến khối nghi bùng vỡ, hành giả thấy rõ bộ mặt xưa nay. Lúc này vẫn
phải thúc liễm thân tâm, bào mòn tập khí; nhưng sự dụng công đã nhẹ
nhàng, dụng công mà không tác ý nên là hằng dụng. Đến giai đoạn mà Tổ
Qui Sơn mô tả: “Con trâu trắng sờ sờ trước mắt, đuổi hoài không đi”, được xem như hoàn mãn phần tự lợi.
Tinh thần Phật giáo Đại thừa luôn nhấn mạnh một điều tối quan trọng
để hình thành nhân cách của một vị Bồ-tát: phát Bồ-đề tâm, trên cầu giác
ngộ viên mãn, dưới nguyện hóa độ tất cả chúng sanh. Bằng nguyện lực,
các Ngài lăn lộn trong sinh tử, ứng hóa đủ mọi hình tướng để tùy duyên
hành hạnh lợi tha. Đó đây trong lịch sử Phật giáo, chúng ta cũng gặp vài
trường hợp như thế: Bố Đại Hòa Thượng, hóa thân của đức Di-Lặc; Hàn Sơn
và Thập Đắc, hóa thân của hai vị Bồ-Tát Văn Thù và Phổ Hiền...Và bây
giờ, những người trong các nhóm thiện nguyện, tổ chức thầy thuốc không
biên giới... hy sinh tài sản danh vọng, hạnh phúc riêng tư và đôi khi cả
mạng sống, để cứu giúp những nạn nhân chiến tranh bạo lực, thiên tai
dịch họa. Đó há chẳng phải các vị đang tu Bồ-tát hạnh, hành Bồ-tát đạo
sao?
Tóm lại, kiến tánh là chánh nhơn tu hành, giúp hành giả có niềm tin kiên cố, luôn tinh tấn dấn bước trên đường Đạo, gọi là Thủy giác. Sau đó, bằng vô - công - dụng - hạnh, hành giả phải trải qua nhiều đời kiếp thực hiện tự lợi và lợi tha để đạt Cứu cánh giác, tức
thành tựu Phật quả. Theo pháp môn Thiền đốn ngộ, chúng ta có thể từ
phàm phu vô minh, trực nhận tự tánh theo đường chim bay thẳng tắp, không
qua thứ lớp tu tập. Nhưng khi đã đốn ngộ, còn phải mất bao nhiêu thời
gian tiệm tu để dứt sạch tập khí, triệt tiêu bản ngã; còn phải gia công
giáo hóa cho người đi sau cũng được giác ngộ như mình. Thế mới biết, nói
Phật và chúng sanh không hai vì đồng một thể tánh, nhưng thật sự cách
xa nhau ngàn trùng. Do đó, người tu chúng ta phải luôn e dè, luôn cần
cầu sự hiểu biết tối thượng, luôn miên mật hành trì, họa may mới có phần
tương ưng. Nếu phước huệ chưa được bao nhiêu đã tự cho mình sánh vai
cùng Phật Tổ, chỉ thêm mang nặng nghiệp chướng, muôn kiếp chưa thể trả
xong.
Mong rằng tất cả chúng ta, trang bị cho mình đầy đủ tư lương, hãy
cùng tiến bước trên con đường thiên lý này. Dù gặp bao nhiêu khó khăn
trở ngại, bao thử thách truân chuyên, chúng ta vẫn vững lòng đi tới. Rồi
cũng có một ngày, phát sinh đại trí phá sạch căn bản vô minh, phát khởi
đại nguyện nhiêu ích muôn loài, chúng ta mới đáp ứng được bản hoài của
chư Phật - Bồ tát, mới đền đáp trong muôn một công ơn của các Ngài.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét