Soeur Elaines McInnes là một vị nữ tu Thiên chúa Giáo, và cũng là một Thiền sư Phật giáo. Năm 1980, sau 15 tu học về thiền quán ở Tokyo, Bà có đuợc danh xưng là Zen Roshi – Thiền sư. Trong vòng 40 năm, Bà đã đem mùi vị của Thiền Quán rải khắp các nhà tù trên thế giới.
Thế
kỷ thứ XVII, René Descartes nhà toán học và triết học người Pháp, khẳng định
thuyết nhị nguyên, tách rời thế giới tâm linh và thế giới vật chất, (mind –
body dualisme) theo ông, Mind: tư tưởng, và Body: cơ thể, là hai cái entity
không làm cùng 1 chất liệu. Này nhé: nếu bạn cầm dao cắt vào da thịt, máu sẽ
tuôn trào, nhưng nếu bạn đưa bộ óc lên bàn mổ, thì ý tưởng không chảy ra theo
vết cắt...vì vậy những gì xảy ra trong tư tưởng hoàn toàn biệt lập với những gì
xảy ra trong cơ thể, nói cách khác đó là hai phần tử riêng biệt, không ảnh
hưởng gì đến nhau. Nếu như Descartes còn sống đến ngày nay thì hẳn là ông đã
thấy mình thật sự sai lầm...
Tư tưởng và cơ thể con người là 2 bộ phận liên quan mật thiết, những tình cảm yêu ghét, giận hờn không thể cân đo đong đếm đó có thể dẫn đến những căn bệnh rất thực tế như nghẽn tim, loét bao tử, hay ngược lại những căn bệnh hiểm nghèo mà bác sĩ tưởng chừng phải bó tay bỗng nhiên thuyên giảm một cách kỳ diệu sau những cuộc hành hương. Và nữa, sức mạnh của thiền định – Meditation – là một sự thật không thể chối cãi. Sự kiện những vị thiền sư Tibet ngồi toạ thiền trong tuyết lạnh và sử dụng Hoả thân để làm nóng lớp chăn phủ trên người đã làm nao núng giới khoa học gia Tây phương.
Tư tưởng và cơ thể con người là 2 bộ phận liên quan mật thiết, những tình cảm yêu ghét, giận hờn không thể cân đo đong đếm đó có thể dẫn đến những căn bệnh rất thực tế như nghẽn tim, loét bao tử, hay ngược lại những căn bệnh hiểm nghèo mà bác sĩ tưởng chừng phải bó tay bỗng nhiên thuyên giảm một cách kỳ diệu sau những cuộc hành hương. Và nữa, sức mạnh của thiền định – Meditation – là một sự thật không thể chối cãi. Sự kiện những vị thiền sư Tibet ngồi toạ thiền trong tuyết lạnh và sử dụng Hoả thân để làm nóng lớp chăn phủ trên người đã làm nao núng giới khoa học gia Tây phương.
Có một sự giải thích khoa học nào
không cho những sự kiện tưởng như thuộc về
một thế giới huyền bí của tâm linh đó? Hay chúng ta đành dễ dãi bằng
lòng với
cách xếp hạng chúng vào mục...Khoa học huyền bí, và phải kêu gọi
đến...lòng tin - faith - để mà...gật gù: “Đã bảo là huyền bí rồi
mà!”. Trước khi vận dụng đến “khả năng tin tưởng” của tâm linh, chúng ta
hãy thử dùng
con mắt khoa học để khảo sát về hiện tượng tương quan giữa Cơ thể (Body)
và Ý
tưởng (Mind) qua các chứng bệnh. (Trong phạm vi bài này Tiff chỉ xin bàn
tới sự
liên quan giữa Stress, các căn bệnh gây ra bởi Stress và ứng dụng của
Thiền
– Meditation – trong đòi sống hàng ngày).
2) Sự liên quan giữa Stress và Bệnh:
Tất cả chúng ta đều biết Stress gây ra
rất nhiều bệnh. Cái list của những căn
bệnh thời đại đó càng ngày càng dài ra tưởng như không bao giờ hết. Cái
Stress cao độ (intense) và kéo dài (prolonged) làm yếu đi khả năng đề
kháng
của cơ thể (immunity defense), làm mệt mỏi trái tim, làm hư hoại những
tế bào
của não bộ (memory’s brain cell), làm tăng mỡ đọng ở eo và mông (một
trong những
risk factor của heart desease (nghẽn tim, infartus...), cancer và
diabetese (đái
đường). Stress cũng dự phần lớn vào những bệnh thoái hoá như
polyarthritis
rhumatoide – thoái hóa khớp xương), những bệnh tâm thần – depression, và
góp
phần làm cho các tế bào mau già.
Các cơ cấu giữa Stress và Disease chỉ mới được hiểu khá tường tận từ khoảng đầu
thập niên này (vào khoảng năm 1990, những bài học về Stress còn nằm trong phần
Psychiatric mà không phải là phần Diagnosis – bệnh lâm
sàng).
3) Stress là gì?
Trước hết ta hãy thử lược sơ qua, để hiểu rõ hơn Stress là gì? Stress là một
trong những khả năng sinh tồn của loài ngươì. Nói khác đi Stress là một phản
ứng tự vệ của cơ thể trước các nguy cơ. Stress là một phản xạ tự nhiên giúp con
người đối phó với những bất trắc từ bên ngoài tác động. Khi gặp nguy hiểm – đối
đầu với con sư tử chẳng hạn – cơ thể con người cần phải nhanh chóng sẵn sàng để
“đương đầu” hay “chạy trốn” (fight or flight reponse).
Khi não bộ đánh hơi được một sự nguy hiểm, một tín hiệu được báo ngay
cho:
A- Adrenal glands (nằm trên chóp thận) để tiết ra hai loại
hormones:
- Adrenaline (epinephrine) và
- Glucocorticoids & cortisol.
B- Các tế bào thần kinh vùng Hypothalamus để tiết ra chất:
- Nor-epinephrine. Các loại hormones này là những chất hóa học cực mạnh, có tác dụng làm
cho: **
-
Các giác quan nhạy bén hơn, các cơ bắp (muscle) săn chắc lên, giảm thiểu khả năng tiêu hoá (tác dụng của
nor–epinephirine).
- Tim đập nhanh hơn, phổi: hô hấp nhanh hơn, chuẩn bị đưa oxygen tới các tế bào (t/d của epinephrine).
- Độ đường tăng trong máu để cung cấp nhiệt lượng cần thiết (cortisol).
- Nói tóm lại cơ thể chúng ta đang ở trong tư thế sẵn sàng tác chiến hay ….chạy trốn.
- Tim đập nhanh hơn, phổi: hô hấp nhanh hơn, chuẩn bị đưa oxygen tới các tế bào (t/d của epinephrine).
- Độ đường tăng trong máu để cung cấp nhiệt lượng cần thiết (cortisol).
- Nói tóm lại cơ thể chúng ta đang ở trong tư thế sẵn sàng tác chiến hay ….chạy trốn.
Một khi Stress đã qua đi, (như trong ví dụ này, con sư tử đã đi...chỗ khác chơi)
thì các hormones trở về trạng thái cũ.
Thế nhưng trong xã hội ngày nay,
Stress biến đổi hình thức, nó không còn đơn
thuần là một con sư tử, nanh dài móng nhọn, mà nó thiên biến vạn hóa ra
hàng
triệu tình huống khác: một ông Boss khó tính, một ông xã (hay bà xã) ưa
cằn nhằn, một cuộc
tình sóng gió, 3 tiếng đồng hồ kẹt xe trên xa lộ, 50 cm tuyết sáng thứ
hai…v.v...Cái phản ứng “đánh” hay “chạy” (fight or flight) của cơ thể
vẫn không thay
đỗi nhưng cái Stress ngày nay đã khác với cái stress ngày xưa. Và không
phải
trong tình huống nào mình cũng có thể...Đánh hay Chửi được, mà phần
nhiều là
phải...chịu trận!!!. Vì vậy cơ thể con người gần như luôn luôn đầy ắp
những
thứ hormones này. Chính sự hiện diện lâu dài, ngày này qua ngày khác, và
ở nồng
độ cao (high concentration) của các stress hormones mà tạo ra các nguy
cơ tác
hại cho cơ thể:
a- Tổn thương các mạch máu, đưa đến các bệnh về tim mạch (heart disease).
b- Giảm khả năng đề kháng của cơ thể (immunity systeme), đưa đến cancer, bệnh
nhiễm trùng (infectious disease)....
c- Mất calcium trong xương gây ra osteoporosis ở phụ nữ lúc mãn kinh (menopausis).
d- Làm tăng mỡ đọng ở eo và mông - heart disease.
e- Diabetese, đái đường, mất trí nhớ…
f- Cái liste của những tác hại vì Stress còn rất là daì, đó là chưa kể đến
những căn bệnh thần kinh như depression, parkinson' disease, Alzheimer, stroke
vv và vv…
4) Thiền - Quán sổ tức, và Stress.
Theo DR.Andrew Weil (University of Arizona) thì cách điều hoà hơi thở là cách
thức hữu hiệu nhất để chống lại sự âu lo (anxiety) và Stress, và ngay đối với
cả những thể loại nặng nhất của bệnh khủng hoảng thẩn kinh (panic disorder). Vì
khi bạn chú tâm vào hơi thở, và thở sâu, chậm, yên lặng và đều đặn thì bạn
không thể nào...stress, hay lo âu được. Bởi lẽ rất dễ hiểu là cơ thể bạn
không thể nào cùng lúc lúc làm được những việc trái ngược nhau. Như chúng ta
biết, ngược lại với Stress, sự điều hoà hơi thở sẽ làm cho tim đập chậm, giảm
huyết áp, làm an tĩnh hệ thần kinh. Khi não bộ không nhận được tín hiệu nguy cơ
nữa thì cơ thể trở lại với trạng thái điều hoà, các bộ phận điều tiết những
Stress hormone không còn được kích thích cũng sẽ trở về trạng thái bình thường,
và cơ thể bạn không nằm trong trạng thái chuẩn bị ứng chiến như ta đã thấy ở trên.
Và như thế, bạn vừa..."shut down" những tác hại của Stress.
Hiện nay những Bệnh viện lớn như Columbia Medical center ở New York city, những
bệnh nhân trước khi giải phẫu Tim, đều được mời tham dự những buổi Thiền,
Meditation. Ở những bệnh nhân có tham gia thiền quán, người ta nhận thấy ít lo
âu trước khi mổ, ít mất máu trong khi mổ và hồi phục nhanh hơn sau khi
mổ.
Điều hòa hơi thở chỉ là một dạng thô thiển nhất của Thiền quán, cần nói thêm là
Thiền không chỉ là sự điều hòa hơi thở nhưng nếu bạn biết áp dụng vào đời sống
hàng ngày thì ít ra bạn cũng ngăn ngừa hay chặn đứng được những tác hại của
Stress, tuy bạn chưa đi vào trạng thái Thiền định nhưng bạn cũng đã kiểm soát
được mình qua sự điều tức. Khi kiểm soát được hơi thở của mình, cơ thể của bạn
là của bạn. Có thể bạn chưa đạt được giải thoát hay Đốn ngộ với sự kiểm soát
hơi thở, nhưng ít ra đời sống bạn cũng sẽ được thoải mái hơn và...ít bệnh tật
hơn!!!
5) Những dấu ấn khoa học về Thiền
Theo Daniel Goleman, tác giả của Destructive Emotion thì: “Những cuộc khảo sát
trong vòng 30 năm qua đã cho chúng ta thấy Thiền có tác dụng như một lọai thuốc
giải độc tuyệt vời (antidote) của Stress. Các bác sĩ y khoa hiện nay,
càng ngày càng không ngần ngại dùng Thiền như một phương pháp bổ túc trị liệu
cho những căn bệnh mà khoa học tưởng như phải bó tay như bệnh tim mạch, Aids,
Ung thư, các chứng bệnh kéo dài (chronique) .
Thiền cũng được dùng để điều hòa những chứng bệnh tâm thần như depression,
hyperactive, hay Attention deficit disorders (ADD) và nhất là những căn bệnh
liên quan về Stress (stress related disorders) .
Thậm chí, một etude (thí nghiệm) ở nhà tù Kings county North Rehabitilitation
facility (gần Seattle) cho thấy, những tù nhân gây bạo lực vì nghiện ngập, khi
được tham gia một khóa tu tập về Thiền quán trong thời gian ở tù, thì tỷ lệ tái
phạm trong vòng hai năm sau khi đuợc phóng thích giảm xuống còn 56% so với tỷ
lệ của những tù nhân không tham gia khóa tu tập này là 75%.
Soeur Elaines McInnes là một vị nữ tu Thiên chúa Giáo, và cũng là một Thiền sư
Phật giáo. Năm 1980, sau 15 tu học về thiền quán ở Tokyo, Bà có đuợc danh xưng
là Zen Roshi – Thiền sư. Trong vòng 40 năm, Bà đã đem mùi vị của Thiền Quán rải
khắp các nhà tù trên thế giới. Hạnh nguyện của bà là - qua Thiền quán - đem lại
cho những tù nhân, nhiều lúc là những kẻ sát nhân khét tiếng, sự bình an trong
tâm hồn trong chốn tù đày, sự tự do trong tâm hồn trong 4 bức tuờng sắt, sự
tỉnh thức của những con nguời hầu như có lúc không còn nhân tính.
Một tù nhân chính trị của Canada, bị giam ở bago Bantay prison Philippines, ông
Horacio Morales , liên tục bị tra khảo dã man bằng choc (?) electrique. Thân
thể ông cứ 5 phút lai co giật một cách dữ dội. Trong cái tận cùng của sự khổ
đau thân xác đó, ông đã đuợc Soeur Elaines huớng dẫn thiền quán. Sau này, chính
ông đã viết trong hồi ký: “Tôi không còn bị giam giữ bởi 4 bức tuờng sắt. Qua
cánh cửa sổ của nhà giam tôi thấy mình hòa nhập làm một với thế giới bên ngoài,
ung dung tự tại”. Ngày 04-12-2001 bà được chính quyền Canada trao tặng giải
thuởng cao quí nhất: Order of Canada.
Qua những điều trên, chúng ta hẳn thấy những ứng dụng của Thiền Quán trên đời
sống hàng ngày là có thực, là không thể chối cãi. Thế nhưng...cái gì đã thật sự
xảy ra trong chúng ta, khi chúng ta ngồi tĩnh tọa, hoàn toàn chú tâm vào hơi
thở, một câu nói, một hình ảnh hay một công án?
Nói tóm lại, cái gì đã thay đổi trong cơ thể (Body) và ý tưởng (brain) của chúng ta? Với những máy móc hiện đại ngày nay, liệu chúng ta có soi thủng được cái bí mật của sự Thiền Quán?
Nói tóm lại, cái gì đã thay đổi trong cơ thể (Body) và ý tưởng (brain) của chúng ta? Với những máy móc hiện đại ngày nay, liệu chúng ta có soi thủng được cái bí mật của sự Thiền Quán?
6) Những nghiên cứu mới về Thiền
Năm 1967 – Dr.Herbert Benson giáo sư y khoa ở Harvard, làm một cuộc khảo sát
Điện não đồ trên 36 người ngồi thiền. Ông nhận thấy cơ thể con người khi ngồi
thiền:
- Dùng 17% ít hơn Oxygène.
- Làm giảm nhịp tim mạch 3 nhịp mỗi phút.
- Não bộ sản xuất nhiều hơn làn sóng theta (theta ways) – giai đoạn cực kỳ thư
giãn truớc khi đi vào giấc ngủ, khi ý tuởng cực kỳ linh họat và sống động và
tuôn chảy như thoát khỏi mọi ràng buộc và suy xét (The ideation that can take
place during the theta state is often free flow and occurs without censorship
or guilt. It is typically a very positive mental
state).
Nhiều năm sau, Dr.Gregg Jacobs – một giáo sư về tâm thần ở BV Harvard, cũng
làm một cuộc khảo nghiệm tương tự, Ông so sánh điện não đồ (ECG) của một nhóm
ngồi thiền và một nhóm thực hành thư giãn (relaxation) bằng cách nghe nhạc và
đọc truyện. Ông nhận thấy, ở nhóm người thực hành Thiền quán:
- Não bộ phát ra nhiều làn sóng theta hơn là nhóm đọc truyện.
- Họat động của phần lobe frontal của não bộ (img 2) (chỗ ghi nhận và phân tách
những cảm thụ (sensory information) bị ngừng
trệ - Cùng lúc hoạt động của lobe parietal (voir img 2) cũng giảm thiểu. Lobe
parietal là phần não bộ nằm gần ngay trên đỉnh đầu, nơi ghi nhận những tín hiệu
về không gian và thời gian). Sự giảm thiểu những họat động của phần não bộ này
cho chúng ta cái cảm giác không bị ràng buộc và hạn chế bởi không gian và thời
gian. Cái cảm giác hòa đồng – at one – với vũ trụ.
Và với những kỹ thuật tân tiến hiện nay, với máy scanner hiện đại có thể cho
chúng ta thấy những hình ảnh rất rõ ràng của não bộ (brain
imaging).
Năm 1997, một nhóm bác sĩ chuyên khoa về óc (neurologist) ở University of
Winconsins (Dr.Richard Davidson) làm một cuộc khám nghiệm não bộ bằng brain
imaging của những thiền sư Phật giáo khi họ đang hành thiền.
Những khám phá này là một bước tiến vĩ đại trong công cuộc tìm hiểu những bí mật về thiền quán. Trái với những gì chúng ta tưởng tượng, Những danh từ như Vắng lặng, Rỗng không, Tĩnh lặng...thường đi đôi với Thiền cho chúng ta cái cảm tưởng là khi hành thiền, muốn đạt đến trạng thái...không tạp niệm, thì có lẽ những họat động của não bộ phải được giảm thiểu đến mức tối đa.
Những khám phá này là một bước tiến vĩ đại trong công cuộc tìm hiểu những bí mật về thiền quán. Trái với những gì chúng ta tưởng tượng, Những danh từ như Vắng lặng, Rỗng không, Tĩnh lặng...thường đi đôi với Thiền cho chúng ta cái cảm tưởng là khi hành thiền, muốn đạt đến trạng thái...không tạp niệm, thì có lẽ những họat động của não bộ phải được giảm thiểu đến mức tối đa.
Nhưng trái với những gì ta dự đoán, những hình ảnh trong cuộc nghiên cứu của Dr.
Davidson cho chúng ta thấy, khi hành thiền:
- Não bộ ngăn chận những tín híệu đến phần parietal lobe (Thùy não đỉnh)
- Những họat động của prefontal cortex (phần nằm ngay truớc trán ) được chuyển
từ bán não phải qua bán não trái.
7) Đây là một khám phá cực kỳ lý thú.
Prefrontal cortex là vùng não bộ chuyên cấu tạo, hình thành những ý tưởng và
ngôn ngữ, cùng điều hòa những tình cảm yêu ghét giận hờn của con người (planning
and production of thoughts, language, emotional expression, and actions).
Cũng theo Davidsons, trong “The sciences of emotion”, vùng prefrontal cortex
chiếm một vị trí quan trọng trong sự modulation của tình cảm con người. Chúng
ta ai cũng biết những người bị chấn thương sọ não thường có những thay đổi tính
tình tùy theo vùng bị chấn thương. Những người bị chấn thương bên bán não trái,
đương nhiên sẽ chịu sự điều hành của bán cầu phải, thường là những người được
associate với loại người bi quan (negative mood), họ thường bị depress, hay khóc
lóc, lo âu, chán nản...Trái lại những người bị thương phía bên phải, và chịu
sự điều hành của bán cầu trái lại là những người có tư tưởng lạc quan, hăng
hái, nhiệt tình.
Sau khi dùng FMRI (functional magnetic resonance) để phân loại, Những người với
sự hoạt động của vùng não bộ này thiên về phía bán cầu phải (right prefrontal
oriented) thuờng là những người có tính cách bi quan, hay nhìn sự việc trên
khía cạnh Xấu, là loại người (pessimist) yếm thế và dễ chán nản, khi đuợc hỏi
dùng những tính từ để tả tâm trạng mình, họ thường dùng những từ như: sợ
hãi, lo âu, căng thẳng ( nervous)= bồn chồn, distress =cùng khốn...Ngược
lại những người thiên về bên trái (left oriented) lại dùng những tính từ như: mạnh
mẽ, hăng hái, tỉnh táo, hãnh diện, vui vẻ, exited (thanh thoát)…
Các nghiên cứu nói trên, và nhất là gần đây, khi ngài Dat Lai Latma, cùng với
những thiền sư Tây Tạng và những giáo sư ở Mind and Life institut thực hành một
cuộc thí nghiệm rất qui mô với hình ảnh của não bộ của những Thiền sư lúc tọa
thiền đã chứng minh được rằng sự hành tập Thiền Quán có thể rèn luyện được
những tế bào thần kinh (neurones), để di chuyển những hoạt động của não bộ về
những vùng cho ta sự tỉnh thức, và thoải mái...Và như vậy, cho dù ta không thay đổi được hoàn cảnh và sự việc trong cuộc đời,
nhưng ta thay đổi được cách tiếp nhận, và cảm nhận của chính ta. Nói một cách
khác, ta thay đổi được cái nhìn của ta về những sự việc và hoàn cảnh xảy ra để
mà chấp nhận, và thay đổi cái quan niệm, cái cảm thọ của chính mình.
Cũng như nhìn một ly nuớc có phân nửa nuớc, ta có thể thấy nó vơi một
nửa và có ý niệm Buồn. Ngược lại ta cũng có thể thấy nó đầy một
nửa và ý niệm Vui sẽ khởi sanh. Cùng một sự việc, nhưng sự cảm
thụ có khác nhau (Đầy - Vơi) sanh ra những tình cảm trái ngược nhau (Vui - Buồn).
Những nguyên do của stress vẫn còn đó, (vì đó là những gì ta không thể nào
tránh khỏi trong đời sống) ông boss vẫn khó tính, bà xã (ông xã) vẫn hay cằn nhằn...Nhưng đối với một người tu
tập thiền quán, sự cảm nhận của họ đã đổi khác. Thay vì Đánh trả hay Chạy
trốn, hay...Chịu trận...họ biết cách Chấp
nhận và tìm thấy được hạnh phúc ngay trong cái gọi là bể khổ này đây.
Do đó khi tu tập Thiền quán, bạn chẳng
cần phải là người theo đạo Phật, chẳng
cần phải là Phật tử, bạn có thể theo tôn giáo của bạn, bạn có thể là
người theo
Thiên chúa giáo, hay Hồi giáo v.v...bạn thấy Đời là những phiền não, là
Khổ, và
bạn ngồi xuống tập trung ý tưởng mình vào hơi thở, vào một lời nói, một
công án...Bạn shut down những stress hormones đang tuôn trào trong cơ
thể bạn. Bạn
chuyển dòng điện não qua phía bán cầu trái...và bạn thấy thơ thới, nhẹ
nhàng...cơ thể bạn không còn bị hành hạ bởi những độc dược tự bạn tiết
ra, vấn đề đối
với bạn cũng không còn nan giải và trầm trọng. Bạn thấy bớt khổ...Và Đức
Phật mỉm cười...vì bạn đã đi đúng cái con đường mà Ngài muốn truyền đạt
lại cho bạn ngay sau khi Ngài chứng ngộ (cũng nhờ Thiền Quán!) dưới cội
Bồ đề, con đường của Khổ Tập Diệt Đạo, con đường của Tứ Đế, con đường
Diệt Khổ…
Thật
vậy, chính bạn đã tìm được và đi vào con đường của bạn đã mở ra, bạn đi trên
con đường ấy với nụ cười trên môi và sự tỉnh thức mà bạn tự rèn luyện qua Thiền
quán để có được bản lĩnh vượt qua những Stress luôn chực chờ đón bạn trong cuộc sống.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét