Trong thời gian chữa bệnh giúp đời,
ông Cayce đã nhận được nhiều thơ tín từ khắp nơi trên thế giới gửi đến.
Đọc những bức thư đó, người ta không khỏi lấy làm buồn tủi, nghẹn ngào
và động lòng trắc ẩn trước bao nỗi đoạn trường, đau khổ, lầm than của
nhân loại. Ông Cayce đã không quản công lao khó nhọc, làm việc không
tiếc thân, bất kể ngày đêm, để giúp đỡ tất cả mọi người bằng những cuộc
soi tiền kiếp, giúp đỡ và bày vẽ phương pháp điều trị bịnh tật, cùng
phương pháp giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ trong cuộc đời của họ.
Có những bức thư trình bày những nỗi thắc mắc, băn khoăn của đương sự, chẳng hạn như của một thiếu phụ viết như sau: "Tôi
tự hỏi không biết ông có thể dành cho tôi một cuộc soi kiếp để giúp ý
kiến về đời sống tình cảm của tôi chăng? Tôi thật không còn biết tính
sao? Tôi muốn tái giá và hy vọng có một gia đình ấm cúng, hạnh phúc,
nhưng tôi e ngại không biết có lấy được người chồng vừa ý hay không, hay
là có lẽ tôi không nên nghĩ đến việc tái giá nữa? Và chắc có lẽ cũng
không có ai thương yêu tôi?" Một người đàn bà khác viết: "Làm sao cho chồng tôi thay đổi tính tình, để cho gia đình tôi được sống trong bầu không khí yên vui và hạnh phúc?"
Những người viết thơ bày tỏ tâm sự, dầu là thông minh hay dốt nág, giàu
hay nghèo, sang hay hèn, tất cả đều tiết lộ cho ta thấy sự thắc mắc băn
khoăn của nhân loại. Dầu họ là những người nhút nhát, tánh tình khép
chặt, cô đơn, bệnh tật, thất bại trên đường đời hoặc gia đình rối rắm,
họ đều có một nguyện vọng chung, là cải tiến tình trạng hiện tại để làm
cho số phận của họ trở nên tốt đẹp hơn. Trong hầu hết mọi trường hợp, họ
đều được cho biết rằng nguyên nhân tình trạng đau khổ của họ là do
chính họ tự gây ra. Đó là điểm đầu tiên mà đương sự phải nhìn nhận. Xét
cho cùng, mỗi người tự tạo lấy những khó khăn đau khổ cho mình, và bởi
đó chính họ phải tự giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ đó.
Bất luận sự khó khăn trắc trở đó như thế nào, như khổ về sự cô đơn; hoặc
vì người chồng tánh tình xung khắc, không thể cùng nhau hòa hợp; vì một
đức con hư hỏng; một hoàn cảnh chật hẹp tù tùng chẳng hạn; chúng ta chỉ
có thể vượt qua được sự khó khăn bằng cách tự sửa đổi lấy tâm tính của
mình. Điều cần phải sửa đổi, chính là cái thái độ tinh thần và cách xử
thế hằng ngày của chúng ta vậy. Hãy dẹp bỏ tánh hay chỉ trích, chê bai,
saün sàng lên án những người chung quanh, tánh thù vặt, kiêu căng, ngã
mạn, dửng dưng, lạnh lùng. Hãy trừ bỏ thói ích kỷ, khinh mạn, đố kỵ.
Những khó khăn chướng ngại của ta chỉ có thể giải quyết được bằng cách
tu sửa tánh tình, tập lấy những đức tính tốt lành, nhân đức, thuộc về
địa hạt tâm linh. Sự giáo dục tâm linh và thay đổi thái độ
trong cách xử thế hằng ngày phải được đặt trong khuôn khổ một sự hiểu
biết sâu xa về Vũ Trụ, cùng những mối liên quan về Vũ trụ và Con Người.
Quan niệm do biểu lộ rõ rệt trong các tập hồ sơ Cayce và những cuộc soi
kiếp mà ông đã thực hiện cho hằng trăm người. Quan niệm ấy gồm có những
đường lối đại cương như sau: Có một Quyền Năng Sáng Tạo vô biên mà người ta gọi là Thượng Đế. Mỗi linh hồn là một phần tử của Thượng Đế. Đời người có một mục đích, và diễn ra một cách liên tục. Đời sống con người vẫn tiếp tục luôn luôn sau khi chết. Đời người được cai quản bởi những định luật Luân Hồi và Nhân Quả: "Thực hiện lòng bác ái tức là thuận theo Cơ Trời." "Ý chí con người tạo nên định mệnh" "Tư tưởng có một quyền năng sáng tạo." "Sự giải đáp cho mọi vấn đề khó khăn là ở tự nơi linh hồn mỗi người..."
Căn cứ trên những điều ấy, là những điều răn dạy sau đây: "Ta hãy bắt đầu tìm hiểu những mối tương quan giữa mình và những Sức Mạnh Sáng Tạo của Vũ Trụ, hay Thượng Đế." "Ta hãy đặt mục đích và lý tưởng trong đời mình, và hãy cố gắng thực hiện những lý tưởng đó." "Hãy hoạt động, kiên nhẫn, và vui vẻ luôn luôn." "Đừng nghĩ đến kết quả của việc làm, hãy dâng mọi kết quả lên Thượng Đế." "Đừng trốn tránh những khó khăn xảy đến cho tạ" "Hãy làm mọi việc lành để giúp đỡ kẻ khác."
Nhiều người phương Tây không chấp nhận quan niệm của những tôn giáo
Phương Đông về Vũ trụ và nhân sinh, nhưng quan niệm này đã được những
cuộc soi kiếp của ông Cayce xác nhận. Tuy nhiên, mặc dầu họ không thể
chấp nhận quan niệm đó vì thiếu bằng chứng khoa học xác đáng, chặt chẽ
hơn là những bằng chứng trong hồ sơ Cayce, họ cũng không thể phủ nhận
một cách dễ dàng tánh cách đúng đắn, hợp lý và làm thỏa mãn lý trí của
thuyết Luân Hồi, cùng lập luận vững chắc và thỏa đáng của thuyết ấy trên
các phương diện tâm lý, luân lý và khoa học. Đối với người nào có thể
chấp nhận thuyết Luân Hồi, thì nó đem lại cho họ một lẽ sống mới, một
kim cỉ nam để soi hướng vàdìu dắt họ trên đường đời, và một sự quả quyết
chắc chắn rằng họ sẽ không bị lạc bước trong chốn mê đồ gồm những sức
mạnh tối tăm, cuồng loạn, và không mục đích.
Kết luận
|
|
Trong những trang vừa qua, chúng ta đã
đi hết một quãng đường dài, bắt đầu từ một câu chuyện nhỏ xảy ra trong
một phòng khách sạn ở Dayton, Ohio, Hoa Kỳ, khi ông Edgar Cayce dùng
Thần Nhãn trong lúc thôi miên, lần đầu tiên cho biết Luân Hồi là một
điều có thật trong cõi Thiên Nhiên. Câu chuyện ấy và những chuyện tương
tự khác nối tiếp theo sau về vấn đề Luân Hồi có vẻ dường như một nền
tảng chưa đủ vững chắc để xây dựng trên đó cả một tòa lâu đài tâm lý và
triết lý mà chúng ta đã thấy những nét đại cương trong quyển sách này.
Tuy nhiên, xét về lịch sử khoa học, người ta thấy rằng những sự phát
minh lớn lao làm đảo lộn cả một thế hệ, dường như chỉ bắt đầu bằng những
câu chuyện nhỏ nhặt vô lý. Một cái đùi ếch bị điện giựt và một mẩu bánh
mì mốc meo dường như là những sự vật quá nhỏ mọn không đủ dùng để phát
minh ra bình điện khí và thuốc trụ sinh (Penicilline) nhưng sự thật đó
chính là những nguyên nhân đưa đến hai sự phát minh kỳ diệu trên. Một
ngọn đèn lồng đưa lủng lẳng trong một nhà thờ cổ ở một làng nhỏ bên Ý đã
đưa ông Galilée đến việc phát minh ra một đồng hồ thiên văn. Một bồn
nước tràn đã giúp cho ông Archimede tìm ra một định luật quan trọng về
áp lực của chất nước.
Lịch sử đã đưa đến cho ta nhiều thí dụ
tương tự. Chúng ta phải nhìn nhận sự thật có thể tìm ra được từ những
chỗ rất giản dị tầm thường, và chúng ta cũng sẽ không ngạc nhiên mà thấy
người học thức ít ỏi, không tài ba, thiếu văn hóa, nằm trong giấc ngủ
thôi miên, lại có thể đưa ra những bằng chứng quan trọng để chứng minh
cho một thuyết căn bản lạ lùng về đời sống con người.
Chúng ta
hãy tóm tắt những gì đã chứng minh cho sự thật của những cuộc soi kiếp
của ông Cayce, ngoài ra vô số những bằng chứng hiển nhiên khác về sự
thật của hiện tượng Thần Nhãn. Có tất cả bảy điểm chính sau đây:
1.- Sự phân tách tâm lý và diễn tả hoàn cảnh bên ngoài của những người
hoàn toàn xa lạ Ở cách xa hàng trăm cây số; và trong hằng ngàn trường
hợp, đã tỏ ra đúng ý như thật.
2.- Sự tiên đoán về những thiên
tư, khả năng và những điểm khác của đương sự, đã được chứng thực trong
nhiều năm sau, không những cho người lớn, mà cũng cho trẻ sơ sinh.
3.- Những đặc điểm về tánh tình của đương sự được truy nguyên một cách hợp lý từ những kinh nghiệm thâu nhập ở các kiếp trước.
4.- Những lời tiên đoán đều đúng và không hề trái ngược nhau, không
những trên nguyên tắc đại cương mà thôi, mà cũng trong từng chi tiết nhỏ
nhặt, trong hằng trăm các cuộc soi kiếp khác nhau, và ở những thời ký
khác nhau.
5.- Những tài liệu lịch sử lu mờ đã được kiểm điểm
lại bằng cách tra cứu các văn khố; những tên tuổi của các nhân vật vô
danh đã được tìm thấy tại những địa điểm mà các cuộc soi kiếp đã nêu ra.
6.- Những cuộc soi kiếp cùng những lời khuyên mà đương sự đã
chấp nhận và nghe theo, đã giúp cho nhiều người thay đổi cuộc đời của họ
về các phương diện tâm lý, nghề nghiệp, và sức khỏe thể chất.
7.- Những lời khuyên nhủ và răn dạy có tính cách triết lý và tâm lý
trong các cuộc soi kiếp đều hạp với lẽ Đạo, đúng như nền Đạo lý cổ
truyền đã từng đem giảng dạy ở Ấn Độ từ nhiều thế kỷ.
Nói tóm
lại, đó là bảy điều quan trọng chứng minh cho những cuộc soi kiếp bằng
Thần Nhãn của ông Cayce, và xác nhận sự thật về thuyết Luân Hồi. Người
ta có thể cho rằng đó chưa phải là những bằng chứng cụ thể và mười phần
xác đáng, nhưng nó vẫn có giá trị không kém. Dầu cho lập luận khoa học
chứng minh rằng Trái Đất tròn, thì đó cũng chỉ là một sự phỏng đoán mà
thôi, chứ chưa có ai đã thật sự thấy tận mắt hình tròn của Trái Đất. Sự
thật về hột nguyên tử cũng chỉ là một sự phỏng đoán, chứ chưa có người
nào đã thấy tận mắt một hột nguyên tử. Tuy vậy, căn cứ trên những sự ức
đoán đó, người ta đã đi du lịch vòng quanh Trái Đất, và đã chế tạo quả
bom nguyên tử, mà ảnh hưởng tàn phá mãnh liệt của nó, không ai có thể
chối cãi là không có! Như vậy, thật không phải là một điều không tưởng
quá đáng mà nói rằng người ta nên bắt đầu có những cuộc sưu tầm và thí
nghiệm khoa học về thuyết Luân Hồi, căn cứ trên những cuộc soi kiếp bằng
Thần Nhãn của ông Cayce.
Những người chủ trương thuyết Luân
Hồi chỉ có thể hy vọng rằng những ai muốn tìm sự giải đáp thỏa đáng cho
những điều bí ẩn của đời người, hãy chấp nhận thuyết Luân Hồi như một
nguyên tắc cốt yếu cho sự tìm tòi của họ. Họ hãy sống với thuyết ấy, hãy
cư xử, hành động thuận chiều với nó trong một thời gian, họ hãy tự xét
mình, xét người chung quanh, và nhìn xem cuộc đời thế gian theo những
nguyên tắc giản dị nhưng rất có ý nghĩa của thuyết Luân Hồi, rồi họ sẽ
nhận thấy rằng đâu là Chân Lý.
Nếu quả thật thuyết Luân Hồi là
một định luật của nhân sinh, do đó con người tiến hóa và trở nên Toàn
Thiện; nếu quả thật đó là Chân Lý giản dị của cuộc đời, và là cái bí
quyết then chốt của sự sống và của vấn đề đau khổ, thì đây là một sự
kiện mới, có thể làm đảo lộn trào lưu tư tưởng của thế hệ, và làm thay
đổi được cuộc đời của một số rất đông người.
Sự hiểu biết về
định luật Luân Hồi sẽ đem đến cho chúng ta một nguồn khích lệ và can
đảm. Nó cũng đem đến cho ta một viễn ảnh mới mẻ, tốt đẹp và huy hoàng về
Vũ Trụ Nhân Sinh; một sự hiểu biết sâu xa, tế nhị và thâm trầm về cuộc
đời, để giúp chúng ra có thể chịu đựng một cách vui vẻ, bình tĩnh và hồn
nhiên, tất cả mọi sự thử thách đắng cay và đau khổ của định mệnh.
Hết
|
| |
0 nhận xét:
Đăng nhận xét