Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

Địa ngục du ký- Phần 1

 
LỜI TỰ TRẦN


LỜI TỰ TRẦN CỦA SƯ CÔ THÍCH NỮ HUỆ HIỀN
(CÔ BA CHÁO GÀ)



Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Trước kia con là người đại ác, nhưng sớm thức tỉnh tu hành, theo Phật, Pháp, Tăng, trong lúc hành đạo, con đã trãi qua bao nhiêu thử thách đắng cay. Số mình dốt nát, Kinh Luật chẳng thông, phiền một nỗi tuổi già tu muộn. Ngoài đời khảo đảo, trong đạo lại mỉa mai, biết mình nghiệp nặng, kiếp trước vụng tu. Nên con có nguyện cùng mười phương chư Phật cho con được trả hết nghiệp trong một kiếp này, mong nhờ kiếp sau trong sạch mà đi ngay vào đường đạo, không còn bị oan gia dẫn dắt, nghiệp chướng kéo lôi.

Vì thời đại nguyện đắc thành, nên Diêm chúa cho bắt hồn con xuống Ðịa Ngục để sử án. Ôi, vì mình tạo ác nên phải trả nghiệp thật quá xót xa tê tái. Nào trầm mình nơi biển lạnh, thân thể cứng đờ, nào bị bầy gà , vịt mổ đá, cắn xé tơi bời, nào nuốt lửa toàn thân lên khói, nào ngất xỉu nơi địa ngục thứ bảy: vì thấy sự hành phạt quá gớm ghê, nào phải vào núi lửa ở cửa ngục thứ mười, tưởng đâu thân này ra tro mạt .

Ðáng lý con phải chết luôn, nhưng ơn trên thấy chúng sanh đời mạt pháp, tội ác chập chồng không tin nhân quả, tưởng đâu chết rồi là hết, nên cho con sống lại để nói chuyện Ðịa Ngục, hầu nhắc nhở bà con, cô bác sớm thức tỉnh tu hành.

Ðến khi trở về cõi thế, thân con còn phải mang câm, điếc. Thế mà lắm người nông nỗi, cho con là tà đạo, dùng lời giả dối để mê hoặc chúng sanh. Như uống nước: nóng hay lạnh tự mình biết lấy, chớ việc chánh tà lý đạo đã quá phân minh.

Con nghĩ: Ðạo Phật là đạo từ bi, lòng xót thương vạn loài đang lặn hụp trong biển khổ sông mê, đồng thời tìm phương giải cứu, để tận diệt gốc khổ cho chúng sanh. Xét vậy dù cao hay thấp dù thật hay huyền diệu, đều đồng mục đích dẫn dắt chúng sanh đến bờ giác ngộ giải thoát.

Mô Phật,

Nhưng hôm nay thầy chẳng đắn đo lời thề, gạt bỏ tiếng thị phi, cho phép con kể chuyện Ðịa Ngục cho thầy nghe, nhờ thầy chứng minh cho con, nếu như chánh thì thầy bảo con kể để nhắc nhở bà con, cô bác tu hành, còn như tà thì thầy dạy con không nói nữa.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Thích Nữ Huệ Hiền kính bút
Lời giới thiệu

Thích Nữ Huệ Hiền, tục danh Cô Ba Cháo Gà đã thật chứng kiến về việc âm phủ rõ ràng cho nên sợ hãi, từ đó tu hành quyết dứt sạch nghiệp chướng oan khiên, đã tự lợi bao nỡ điềm nhiên chẳng vì tha lợi, nên cô đã đem việc này nhắc nhở cho người đời sớm mau thức tỉnh, kẻo để đến lúc ăn năn rất muộn.

Vì có người nghe, thấy, biết những việc kể về âm phủ trúng chứng bịnh của mình, nhưng cũng cứ chạy theo danh lợi nên làm càn nói bướng, cho rằng: "Thuyết của Cô Ba Cháo Gà là mị ngữ tà đạo".

Thưa quý vị, mị nữ tà đạo là gì? Theo tôi thì: "Lời nói nhắc nhở khuyên người tu thiện dứt dữ, không phải là mị. Thuyết Ðịa Ngục từ người đời cho đến tôn giáo đều nhìn nhận không phải là tà ma".

Vì tự lợi, lợi tha nên không nề lời phê phán, tôi lược ký thuyết Ðịa Ngục do Cô Ba Cháo Gà kể lại, để cống hiến cho quí vị sớm suy xét tu hành, hầu mong khỏi tội lỗi đọa lại.

Thích Nhựt Long cẩn chí
NẰM MỘNG

Nam Mô A Di Ðà Phật, nay tôi xin nói chuyện Ðịa Ngục vì người thế gian ít biết về Ðịa Ngục được. Nhân vì tôi người đại ác, Diêm chúa cho người bắt tôi xuống Ðịa Ngục, hôm nay tôi đặng về đây là do một đại nguyện và nhân duyên như sau: Trở về cõi Diêm Phù này để nói cho cô bác được rõ những tội phước của tôi như thế nào, tại sao tôi phải đi Ðịa Ngục?

Tôi đi Ðịa Ngục là đền tội lỗi và nhờ lực nguyện có duyên lành để nói lại cho cô, bác biết sự quả báo, phòng tránh là việc sát sanh hại mạng không phạm tội sa Ðịa Ngục như tôi. Trước khi đi Ðịa Ngục có nguyên nhân: vì tôi là CÔ BA CHÁO GÀ ở chợ Vòng Nhỏ, một vùng chợ Mỹ Tho, danh từ này ai cũng đều biết. Tôi bán cháo gà một thời gian từ năm Ngọ cho đến cuối năm Mùi gần ngót 18 tháng. Ngày 16 tháng 11 rạng 17, tôi định sắp sửa nấu cháo gà. Trong đêm đó tôi nằm mộng thấy cắt cổ một con gà mà nó hiện làm người ta, khi đó tôi nói: "Ủa tại sao ông thành người ta, làm sao tôi nhúng nước sôi cho được?". Ông ấy đáp: "Mầy chết! Chớ nhúng nước sôi, tao là ông nội của mày đây!".

Tôi hỏi: "Ông nói tôi không tin, ông nội tôi sao lại không giống?". Ông đáp: " Giống sao được, vì hồi còn sống, ông nội sát sanh hại mạng cũng nhiều, khi chết, con cháu lại làm heo, bò, gà, vịt để lo tống táng. Cho nên ông làm thú biết bao nhiêu kiếp mà trả chưa xong, vì thay hồn đổi xác nhiều đời làm sao còn giống được mà con biết. May nhiều đời trước có chút công tu nên được Diêm chúa cho về bảo con cháu biết. Con rán tu đừng sát sanh hại vật phải đọa Ðịa Ngục như ông quá khổ sở".

Tôi hỏi: "Ông nói tôi cũng chưa tin, ông tên là gì?". Ông đáp : "Ông là Huỳnh Văn Vấp, cha mầy là Huỳnh Văn Thình, mầy là Huỳnh Thị Nhi, con tin chưa?". Tôi đáp: "Ông nói đúng sự thật, nhưng thấy tướng mạo tôi còn nghi". Ông bèn tiếp: "Thôi con rán tu đi rồi biết, chớ đừng nghi, ông cho con hay, con tội lỗi rất nhiều, vì sát sanh, không những gà vịt mà thôi, cho đến trùng, dế, kiến, chuột bọ, rắn rít đều có tội hết. Con nên cố gắng tu đi, để cầu siêu cho ông với".

Ðến đây, đồng hồ ré, tôi giựt mình xem đúng 3 giờ khuya. Thường khi nấu cháo gà cũng giờ đó, và ngày đó lại nhằm ngày 17 tháng 11 vía Phật A Di Ðà. Tôi liền đem gà bán hết và không làm nghề nấu cháo gà nữa, bắt đầu ăn chay trường tụng kinh, trải 6 năm như vậy.
Du Ðịa Ngục

CHẾT ÐI ÐỊA NGỤC LẦN THỨ NHẤT


Thời gian sáu, bảy năm cư sĩ tại gia, thường ngày tụng kinh Di Ðà, Phổ Môn và niệm Phật, lần lần tụng đến kinh Ðịa Tạng, Pháp Hoa . Tính ra từ 17 tháng 11 năm Mùi cho đến ngày 23 tháng 4 năm Dần. Khi đó vào lúc 6 giờ chiều, tôi đang ngồi niệm Phật, bỗng từ đâu chẳng biết, đứng sững trước mặt tôi một vị mặt đen như than, lớn tợ mâm, bụng bự chòm hòm, muốn chụp tôi. Sợ quá tôi la oai oải, náo động cả xóm, rồi té xuống đất bất tỉnh.

Bỗng nghe tiếng con kêu khóc thấy mình đang đứng trước cửa, có một số người rất đông, biết đây là người âm chứ không phải người dương, là ma quỉ gì đây, tôi không rõ. Họ đang xầm xì với nhau. Nhìn trong nhà thấy con đang ôm đầu tôi khóc thảm và kêu: "Má, má". Còn lối xóm, người đánh lưng bóp cẳng, thoa tay, cạo gió, đủ thứ. Tôi rất đau lòng biết mình đã chết, có lẽ vì công tu quá ít mà tội lỗi thì nhiều, thôi giờ rán niệm Phật, xin Phật cứu độ cho, chớ không dám nhìn vào xác nữa. Khi nhìn ra ngoài niệm Phật thì thấy vị thần đổi sắc mặt, vui vẻ kêu tôi: "Sư nữ, Sư nữ, ngài hãy bắt hơi thở đi".

Tôi suy nghĩ có lẽ là ma hay quỉ gạt mình đặng bắt hồn chớ gì, bèn nói: "Các ngài làm trước rồi tôi làm sau," khi ấy tôi thấy các vị Thần đều hòa hơi thở như lúc ngồi thiền, tôi liền làm theo. Có một vị cõng tôi lên, các vị khác xách tay tôi bay bổng lên mây hướng về phía Tây Nam lướt tới có 6 vị đi trước, 6 vị ở giữa với tôi và 6 vị đi sau trải qua mấy lớp mây rồi ra khỏi đáp xuống. Lúc ấy tôi nghe chư Thần nói đã tới ranh giới Mã Lai tôi nhìn xuống cũng còn thấy nhà cửa cây cối, ruộng vườn, kẻ qua người lại, bay một lúc nữa thì thấy biển mênh mông, những cù lao rãi rác đó đây, lô nhô dưới biển tàu bè xuôi ngược, đèn đuốc lập loè, vì trời đã tối.

Bay một đỗi xa hơn, không còn thấy chi nữa, chỉ toàn là biển mênh mông, mây nước một màu, bầu trời đen thẳm thật lạnh lùng khiếp sợ. Bay một lúc lâu tuyết xuống đầy đặc cả mình lạnh buốt, tay chân te cứng chịu không nổi, nên buông tay nhào xuống biển. Khi đó chư thần với tôi lên đem vào đền vua, được biết đây là Long Vương. Tôi nghe Long Vương hỏi: "Chư Thần bắt hồn chúng sanh ở cõi Diêm Phù sao không bỏ vào hồ lô mà để hồn ở ngoài như vậy, đi qua biển lạnh chịu sao nổi."

Lúc ấy chư Thần trả lời sao tôi nghe không rõ. Kế đó Long Vương bảo một vị rồng bề ngang độ chừng 3 thước, bề dài hơn trăm thước và tôi cùng 18 vị thần lên lưng ngồị Xong xuôi rồng bay tới chân núi dừng lại, các thần cõng tôi bay xuống. Ngọn núi to lớn vô cùng, xa xa là bể cả, được biết đây là núi Thiết Vị. Khí trời ở đây lạnh lắm, sương sa tuyết đổ, trên chót núi tuyết đóng trắng phau. Cảnh trời u ám. Có một điều lạ là khi tôi đến biển thì trời đã tối mà khi đến ngọn núi này lại thấy cảnh mờ mờ.

Chư Thần cõng tôi bay vòng quanh núi, đến một cửa đá rất lớn, thần gõ 3 tiếng thì cửa đá mở ra. Thần hỏi: "Sư nữ có sao không ?". Tôi đáp:"Thưa ngài tôi lạnh lắm chịu không nổi." Có một vị thần lấy ra cái y ở trong tay áo đưa cho tôi đắp. Các ngài cùng tôi vào trong núi thì nghe các vị thần nói: "Bồ Tát đến rồi". Vào trong núi thấy hào quang sáng rực một vùng đất rộng lớn bao la ở đây nghe ấm áp hơn bên ngoài. Nhìn vào trong thấy đền đài nguy nga to lớn, trước đề hai cái tháp cao, có hai vị Bồ Tát đang ngồi ngang nhau. Hào quang tua tủa đổ hột. Tưởng mình được về Tây Phương, lòng mừng phấn khởi, định chạy đến chỗ Bồ Tát ngồi mà lạy.
QUẢ BÁO

Phía ngoài hai vị Bồ Tát ngồi, sau lại có một đàn gà, vịt rất đông, còn phía trong là đền rồng của vua Nhứt Ðiện, vì thấy Bồ Tát tôi quá mừng mà không thấy đàn gà, vịt chận mình phía trước, mỗi con lớn bằng con nghé, tôi vừa đi tới nghe chúng nó nói: "Dữ hôn, chúng tôi đợi nhà ngươi từ tháng 10 năm Sửu đến tháng 4 năm Dần mới gặp. Chúng tôi được nghe Nhứt Ðiện Tần Quảng Vương nói nhà ngươi đã qui đầu Phật pháp mà tu hành. Nhưng trước kia nhà ngươi ỷ mạnh sát hại chúng tôi, nào cắt cổ, nhổ lông, phân thây, xé thịt để đem lại sự giàu có cho mình mà chẳng chút xót thương đến loài sinh vật yếu đuối ngu khờ nàỵ Ngày nay nhà ngươi xuống đây, chúng tôi phải phân thây trả hận". Nói đến đó, chúng nó ào lại vây quanh, con thì mổ con thì đá, lớp gà, lớp vịt mổ bươi cào cấu tôi đau đớn vô cùng.

Không chịu nổi nữa, liền té quị xuống, chúng nó leo lên mình nó chà, nó đạp, bươi, mổ xé, cắn nên tôi ngất đi nhưng lạ lùng thay, tôi còn nghe văng vẳng tiếng Bồ Tát Quan Âm nói: "Này các con vật kia, hãy ngưng lại mà nghe ta nói hai điều. Ðiều thứ nhứt, là các người tự do trả hận, nhưng tất cả đều phải đứng qua một bên, con này mổ rồi đứng qua bên kia, tới con khác mổ, như vậy mới công bình. Số các ngươi là một ngàn mười một con, mà một con cứ mổ hoài, còn con khác không mổ được rồi cứ kiện thưa mãi ai ở đây mà phân sử cho nổi.

Trả thù xong rồi, tùy theo nghiệp lực của các ngươi mà đi đầu thai, con nào còn kiếp thú thì làm thú, con nào mãn kiếp được tiến lên làm người, đó là điều thứ nhất. Còn điều thứ hai là các ngươi không trả hận, để ta cứu nó sống dậy, nó sẽ tụng kinh cầu siêu cho các ngươi tiến lên làm người hết, sau này nó sẽ làm thầy của các ngươi mà độ các ngươi tu hành. Trong hai điều, các ngươi muốn điều nào tùy ý, chớ luật công không ép".

Bồ Tát nói đến đó thì chúng nó dang ra xa và không mổ nửa. Bồ Tát bảo tiếp: "Các ngươi cứ từ từ mà trả hận đi". Các con vật trả lời: "Bây giờ tôi muốn tên này tỉnh dậy để cầu siêu cho chúng tôi được làm người, chớ mang lớp thú hoài, khổ quá!". Bồ Tát bèn sai vị thần đem nước rưới vào mình, tôi liền tỉnh dậy.

Nhớ lại mình đã cắt cổ gà, vịt quá nhiều lòng hết sức ăn năn, tôi bước tới trước mặt Bồ Tát mà lạy. Bồ Tát Quan Âm dạy rằng: "Nhờ ngươi thức tỉnh tu hành, thọ trì kinh pháp trong 6 năm và cũng may là các con vật này nó họp lại đây để kiện người, xin trả thù có một lần. Bằng không, tự nhiên sau này ngươi phải đầu thai làm thú trong một ngàn mười một kiếp để thường mạng, thì biết bao giờ mới trở lại làm người mà tu hành. Chúng sanh mê muội, không rõ luật nhơn quả, cứ tưởng chết rồi là hết, cho rằng: "Vật phải dưỡng nhơn" rồi mạnh tay sát hại, chừng khi quả báo đến thì kêu trời, kêu đất, ai cứu được.

Nhà ngươi có biết các con vật ấy là gì của ngươi không?". Tôi đáp: "Bạch Bồ Tát, con chỉ biết nó là con vật thôi". Bồ Tát nói: "Nó là ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc của ngươi trong nhiều đời, nhiều kiếp. Trước kia nó cũng sát sanh như ngươi nên phải hóa làm thú, nay ngươi nhìn chẳng ra nên đành tâm sát hại chúng. Ngày nay ông bà cha mẹ của ngươi lại kiện cáo ngươi để trả thù, thế gian là trả trả vay vay như vậy đó. Chúng sanh cõi Diêm Phù ưa sát hại sinh vật cho cha mẹ, chồng con ăn bổ dưỡng thân thể, hoặc bắt cá, cua để nuôi con cháu. Vì thương mà hại đó là mình hại mình, hại luôn cả cha mẹ, thân quyến đều phải chịu tội chung. Bây giờ ngươi hãy tụng kinh cầu siêu cho chúng nó được tiến lên làm người, giảng cho chúng nó nghe một bài, khuyên chúng nó rán niệm Phật và qui y Phật, Pháp, Tăng cho chúng nó."
CẦU SIÊU VÀ BỊ KẾT ÁN

Khi đó, tôi bạch rằng: "Con phải tụng kinh chi để cầu siêu cho chúng nó tiến lên làm người". Bồ Tát dạy: "Ngươi phải tụng kinh Ðại Bi và chú, đủ một ngàn mười một biến." Nghe như vậy, tôi bèn đứng lên chắp tay tán Dương Chí tụng Ðại Bi Thập Chú. Trong khi ấy các vị chư Thần cùng các vị quỷ sứ họp chung để tụng, nhờ thế mới mau đủ số chớ để một mình tôi tụng thì có lẽ trên cõi Diêm Phù con tôi đã chôn xác tôi rồi.

Trong lúc tôi tụng thì các con thú tiến lần ra ngoài, đến sông Ứ nê mà đợi đó, các chư thần múc nước cho chúng nó uống đặng đi đầu thai. Sông này có 3 dòng, dòng trong để cho linh hồn nào hiền đức uống, sau này sẽ được thông minh sáng suốt. Dòng đục cho người hung ác, hoặc thú mới tiến lên làm người thì sau này bị u mê đần độn. Dòng đỏ dành cho người đại ác, uống vào thì hóa thành thú đi đầu thai để trả nghiệp. Chư Thần cho chúng nó uống một chung đầu thì rụng hết lông, chung thứ hai thì hoá làm người, chung thứ ba thì tay chân mọc ra. Liền đó tôi giảng cho chúng nghe một bài. Ở đây, xin nói lược: "Này các người trước kia các người vì ác quấy mà phải chịu làm kiếp thú, nay được tiến thoái, tùy ác hay thiện mà các người tiến lên làm Trời, làm người hay phải đọa làm thú, hoặc đày xuống địa ngục chịu hành hình, đều do thiện ác của các ngươi tạo ra mà lãnh lấy hậu quả.

Khi đầu thai, các người phải ở trong bụng đàn bà chẳng khác nào ở trong ngục tối, đến khi ra thai phải ra cửa sản môn như chen qua hai viên đá cứng rắn, đau đớn vô cùng. Sanh ra rồi chỉ nằm lăn lóc đó mà nhờ sự sống của ông bà cha mẹ đem lại. Lúc lớn lên đôi mươi tuổi lập gia đình, sanh con đẻ cháu. Có phước thì sống trong cảnh giàu sang nhung lụa, vô phước thì sống trong cảnh cơ hàn đói rét, thiếu trước hụt sau nhọc ấy. Khi đi đầu thai các ngươi chỉ đem cái nghiệp thức nầy thọ sanh, khi chết các người cũng chỉ trở về cái nghiệp thức còn bao nhiêu sự nghiệp: nhà cửa, ruộng vườn tiền tài, địa vị, thế quyền danh vọng thì ôi thôi đều tan theo mây khói. Nhưng các người biết tu hành, tạo duyên lành theo Phật, Pháp đó là phước báu của các người hưởng muôn thưở, hoặc các người gây ác nghiệp thì chính tự mình tạo xiềng xích trói buộc muôn đời.

Hôm nay, tôi khuyên các người hãy nhớ niệm Phật, các người niệm theo tôi:

Nam mô A Di Ðà Phật.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam mô Cứu khổ Cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.

Nam mô Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát."

Hễ tôi niệm vị Phật nào thì chúng cũng niệm theo vị Phật ấỵ Tôi bèn nói tiếp: "Niệm Phật tức là gieo thiện căn trong Phật, Pháp, niệm Phật tức là gieo hạt giống Bồ Ðề, các người hãy nhớ niệm Phật". Tôi bèn qui y Phật, Pháp, Tăng cho chúng nó, xong rồi chư Thầb thổi cho các vong biến nhỏ lại, thâu vô hồ lô đưa đi đầu thai, trong đêm 23 rạng 24 tháng 4 năm Dần, tính đến nay chúng cũng được 6,7 tuổi rồi .
KẾT ÁN

Xong rồi, tôi trở vào đến ngay Bồ Tát lạy nghe Ngài phán rằng: "Ngươi tạo tội ác tày trời, nay dám nguyện trả xong trong một kiếp, có chịu nổi không?". "Bạch con chịu nổi". Bồ Tát nói: "Vậy thì vào Nhứt Ðiện Tần Quảng Vương mà lãnh án". Ðến Nhứt Ðiện tôi quì xuống nghe Ngài phán án: "Tội lỗi của ngươi rất lớn, nay ngươi nguyện trả xong trong một kiếp thì cứ khai đi". Tôi bèn khai: "Bạch Diêm chúa, con sát sanh vì con giết vật rất nhiều, tội cắp vì mua bán gian xảo, tội tà dâm vì có bảy đời chồng, tội nói láo vì con nói láo hơn ai hết đã vậy mà còn uống rượu nữa". Nói đến đâu thì có vị phán quan dở sổ xem đến đó, kế Diêm chúa quở: "Còn tội bán đồ lậu chợ đen sao không khai, mua một bán mười làm cho kẻ nghèo không đủ tiền mua, tội ấy như tội ăn cướp lòng độc như rắn, muốn đầy túi mình chẳng biết thương hại ai". Tôi nói: "Bạch ngài, tôi xin chịu tội".

Nhất Ðiện bèn phán án: "Tội sát sanh rất nặng theo lẽ phải thường mạng, nhưng hôm nay người xuống đây cho chúng nó trả hận, và cầu siêu cho chúng nó như đã xong, song còn dư báo, nếu sau này ngươi tu hành độ chúng nó thì dứt oan gia bằng thối thất thì phải thọ sanh thường mạng.

Nhờ lòng hiếu thảo nên nay trừ được tội gian tham và tội bán đồ lậu. Hàng ngày niệm Phật rất nhiều nên trừ được tội nói láọ Còn dâm dục tuy có tội mà không, vì đó là ngươi trả nghiệp. Vậy ngươi hãy lắng nghe ta nhắc lại tiền kiếp của người: "Trong sáu kiếp qua ngươi qui y theo Phật, Pháp, Tăng mà tu hành, nhưng tiếc thay, kiếp vừa qua ngươi xuất gia từ 8 tuổi cho đến 42 tuổi tu hành tinh tấn, giới hạnh thanh tịnh, độ chúng sanh cũng đông cho nên được làm Hòa Thượng, trụ trì chùa Tổ Ðình vùng Phú Thọ Chợ Lớn. Nhờ công đức năm kiếp trước cho nên kiếp thứ sáu vừa qua được thông minh sáng suốt, tinh thông kinh luật luận, nên được bá tánh sùng bái, các vị Tăng Ni mến phục.

Vì học giỏi được người kính nể, ngươi sanh cống cao ngạo mạn tưởng mình là Phật, lấy làm tự đắc buông lung, không kềm tâm thúc ý, để tâm ý rong ruổi theo trần cảnh, giới luật buông xuôi, tâm đạo giải đãi, lòng phàm bừng dậy, đắm sắc tham tài, mới phá giới, phạm trai mà tư dâm với cô gái 20 tuổi ở gần chùa. Lấy của thường trụ mà nuôi gái tơ, dụng của Tam Bảo để mua chuộc ái tình cho đến 70 tuổi mới chết. Khi chết xuống đây phải ở địa ngục thứ chín trong 28 năm để đền tội lỗi, từ 42 tuổi đến 70 tuổi. Vì lẽ trên nên 7 đời chồng của ngươi trong kiếp này là 7 người đệ tử ruột của ngươi đi đòi nợ trong kiếp vừa qua đã cung phụng cho ngươi đủ thức ngon vật lạ. Theo lẽ kiếp này ngươi phải làm gái lầu xanh mà trả nợ bá gia. Nhờ ngươi sớm thức tỉnh tu hành, hồi 17 tuổi có qui y với Ðại Ðức Thích Hoằng Nghĩa. Ngài dạy ngươi niệm Phật và tụng chú Ðại Bi. Nhờ thế mà qua khỏi nghiệp ở lầu xanh, nhưng phải chịu nghèo khổ buôn bán tảo tần để trả nợ.
CHỊU QUẢ BÁO

Nhứt Ðiện Tần Quảng vương phán tiếp: "Ngươi hãy nghe cho rõ lời trẫm phán : Trong lúc làm Hòa Thượng mà còn đắm sắc đàn bà nên lãnh tội đui. Ðã là hàng Ðại Ðức trụ trì ngôi Tam Bảo mà đêm đêm sang nhà gái ăn thịt uống rượu mà miệng còn thốt câu: "Vật dưỡng nhơn", không làm gương cho người thế, còn xúi người làm ác nên lãnh tội câm. Ðã xuất gia đầu Phật còn thích nghe tiếng nỉ non êm ả của đàn bà con gái nên lãnh tội điếc, nhưng ngươi biết sớm ăn năng tu hành theo Phật và cũng nhờ lời đại nguyện của ngươi xin trả nghiệp trong một kiếp. Thôi hãy lãnh án mà trở về dương thế làm gương cho người đời, nếu biết ăn năn cố gắng tu hành khi xuống đây sẽ định lại". Tôi nói: "Bạch Diêm Chúa, tội câm và điếc con xin lãnh còn tội đui xin Ngài khoan hồng cho tôi". Nhứt Ðiện phán: "Vì nghiệp lực của ngươi trẫm không thể nào tha được, ngươi hãy đến Bồ Tát mà xin".

Nghe lời Ngài tôi bèn đến lạy Bồ Tát Quan Âm. Ngài hỏi: "Ngươi muốn sáng mắt để làm gì?". "Bạch Bồ Tát, con thấy chúng sanh nơi địa ngục quá khổ sở nên xin được sáng mắt để tụng kinh Pháp Hoa cầu nguyện cho chúng sanh mau sớm siêu rỗi". Ðức Ðịa Tạng nói: "Nếu có lời đại nguyện phải đốt tâm". Liền đó có một vị Thần bưng cái ô như ô trầu đến quỳ trước Bồ Tát Quan Âm, vị khác đến gắp một cục lửa đem đưa tôi bảo nuốt. Thấy lửa thì sợ nhưng không dám cãi, cứ nhắm mắt, há miệng, cục lửa vừa bỏ vào miệng tôi nghe nó chạy tuốt xuống bụng, liền từ đầu đến chân phát ra lửa ngọn, cả cơ thể tôi rung động thật kinh sợ vô cùng. Khi ấy tôi hối hận nghĩ rằng: "Phải dè đừng xin, vì xin khỏi đui mà chắc chết". Vừa nghĩ thế, vị Thần gắp cục lửa thứ hai cho tôi nuốt, lửa cũng bốt lên dữ dội và đến cục thứ ba cũng thế. Làm cho tâm thần tôi tán loạn ngồi không muốn vững. Nghe Bồ Tát bảo: "Nghỉ một chút." Tâm trí tôi lúc đó hoang mang, tay chân rụng rời vị Thần đứng kế bảo: "Ngài rán tỉnh tâm niệm Phật chớ còn nữa". Tôi nghe như vậy định thế nào cũng chết, vì mình người đại ác nên phải trả nghiệp thời đành chịu vậy.

Vừa nghĩ đến đó kế vị Thần gắp cục lửa bảo tôi nuốt nữa, nhưng lạ thay, tới cục thứ tư này nghe trong mình không sao hết , tôi nuốt như mình ăn cơm vậy, dầu có nuốt bao nhiêu tôi cũng không sợ. Ban đầu còn đếm, một lúc không biết đã nuốt bao nhiêu. Chợt nghe Bồ Tát bảo: "Thôi cho ngươi an tọa". Tôi liền trở lại chỗ ngồi, lạ một điều là chỗ tôi ngồi khi đi thì ghế mất. Khi ngồi thì ghế lại hiện ra. Ngồi xong có một vị Thần ở phía sau bưng hộp ra quì trước Bồ Tát Quan Âm. Bồ Tát Quan Âm xem và nói: "Tham, sân, si của ngươi hãy còn , ba cục đen là chỉ lòng tham, sân, si của ngươi đấy! Còn cục đỏ này là chỉ ngươi sẽ sanh lên cõi trời, 36 cục trắng kia chỉ lòng trong sạch của ngươi. Vì ngươi quá sợ tội nên quyết chí tu hành, lòng trần không còn nghĩ đến. Như vậy cũng tốt, nhưng phải tinh tấn tu hành cho 3 cục đen này hóa trắng thì ngươi mới hoàn toàn trong sạch, và vì lời Ðạo Nguyện nên phải khám phá Ðịa Ngục". Lúc ấy tôi ngẩn ngơ không biết phá địa ngục bằng cách nàỏ Nghe chư Thần nói: "Ngài hãy dùng gươm Trí Huệ mà phá". Tôi bèn suy nghĩ bây giờ cứ cố gắng niệm Phật, liền đến lãnh ấn nơi Nhất Ðiện cùng các chư Thần đi khám phá Ðịa Ngục.
 
 
 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét