Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

Nghề gốm cổ truyền Việt Nam

Gốm là một trong những phát minh quan trọng của tổ tiền ta từ ngàn đời nay, đồ gốm đã gắn bó mật thiết với cuộc sống của nhân dân ta. Với chí sáng tạo và đôi bàn tay khéo léo của người thợ gốm, gốm cổ Việt Nam đã trở thành một loại hình nghệ thuật mang tính dân gian sâu sắc.

Gốm truyền thống

Gốm cổ truyền Việt Nam đã có cách đây sáu, bảy ngàn năm. Gốm xuất hiện trong những di chỉ thuộc văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Hạ Long… Rồi ta thấy trong di chỉ thuộc hậu kỳ đồ đá mới Phùng Nguyên, giai đoạn Đồng Đậu, giai đoạn Gò Mun… Đồ gốm cổ truyền nước ta đã có những bước phát triển cao và hết sức phong phú.
Trong truyền thuyết, sự xuất hiện của đồ gốm, đồ sứ như một điều bí hiểm, linh thiêng “Đồ gốm, sứ là loại chất bột nằm sâu trong lòng đất, ở những nơi linh thiêng có ma quỷ canh giữ. Muốn khai thác được phải chọn ngày lành tháng tốt. Lên tới mặt đất, nhờ ánh sáng chói lọi của mặt trời soi dọi chất bột đó mới biến thành gốm, sứ…”
Thực ra đó chỉ là truyền thuyết ly kỳ để tăng cái phần quan trọng của kỹ nghệ gốm, sứ xa xưa. Thực chất hàng gốm, sứ ra đời nhờ đôi bàn tay khéo léo và đầu óc sáng tạo của người thợ thủ công. Lịch sử Việt Nam, tập 1, trang 38 có ghi: “Trong giai đoạn Phùng Nguyên, kỹ thuật tạo chế đồ đá đã đạt đến trình độ cực thịnh. Những chiếc rìu, vồ đục… quy mô to nhỏ khác nhau, được chế tạo bằng cách mài, cưa khoan, rất hoàn thiện. Những vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi… bằng đá được chau chuốt, tiện, gọt tinh vi. Những loại hình đồ gốm (nồi, bát, cốc, vò…) có hình dáng đẹp, chắc, khoẻ, phần nhiều đã được chế tạo từ bàn tay. Mặt ngoài đồ gốm phủ đầy hoa văn trang trí với những đường vạch sắc sảo, những nét cong uyển chuyển, mềm mại, được phối trí, đối xứng và hài hòa. Đó là một biểu hiện về óc thẩm mỹ khá cao của người Việt Nam lúc bấy giờ….”
Vậy là kỹ nghệ gốm giai đoạn Phùng Nguyên (cách ta gần 4.000 năm) ở nước ta đã phát triển mạnh. Con người buổi đó đã biết nghĩ ra bàn xoay và chế tạo ra thứ men để phủ ngoài, tăng thêm vẻ dẹp kỳ diệu của đồ gốm.
Đây là một thời kỳ của nước Văn Lang. Cho tới thời Âu Lạc, kỹ nghệ gốm đã phát triển mạnh lắm. Nghề nung gạch, làm ngói… cũng đã có từ ngày này.
Phải nói thời cực thịnh của gốm sứ là thời kỳ Lý – Trần (thế kỷ XI – XIV). Đó là những năm đất nước phồn thịnh, kinh tế mạnh mẽ, quân sự vững mạnh, văn hóa phát triển, đất nước an bình, mọi kỹ nghệ được khuyến khích phát đạt.
Nghề gốm, xem ra phát triển rải rác khắp đất nước. Ở tỉnh nào cũng có những vùng làm nghề gốm. Cứ ven các dòng sông, chúng ta gặp nhiều mảnh sành, mảnh gốm còn vương sót lại. Hoặc chúng ta gặp những dãy lò gốm đang ăn khói nghi ngút. Những trung tâm sứ gốm ở nước ta, xuất hiện từ thời Lý – Trần mà đến nay vẫn còn hưng thịnh nghề nghiệp, đó là Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc Ninh), Hương Canh (Vĩnh Phúc), Quế Quyển (Hà Nam Ninh), Chum Thanh (Thanh Hóa)… Mỗi vùng quê gốm lại giữ kỹ nghệ riêng biệt. Và mỗi nơi, lại có mặt hàng gốm đặc trưng riêng của mình, tạo thêm cái đa dạng và phong phú của công nghệ gốm Việt Nam. Nếu nói trung tâm gốm ở nước ta, phải nói tới Bát Tràng – Thổ Hà – Hương Canh. Một đặc điểm riêng biệt và rõ nét nhất của nghề gốm là đều phát triển dọc sát các triền sông. Bởi lẽ nó tiện đường chuyên chở, và đất sét dọc các triền sông là thứ nguyên liệu quý để sản xuất gốm, sứ.

Gốm Bát Tràng ngày nay

gom bat trang1 300x225 Nghề gốm và những làng gốm nổi tiếng Việt Nam !
gom bat trang

Theo tài liệu giới thiệu Lịch sử nghề gốm ở Thổ Hà của Ty Văn hóa Hà Bắc, và tài liệu Tìm hiểu nghề gốm ở Bát Tràng, tư liệu đánh máy của Viện Mỹ thuật, năm 1964, cho biết: Vào khoảng thời Lý – Trần có người đỗ Thái học sinh (đặc biệt chức Thái học sinh thì mới có từ thời Trần) được cử đi sứ nhà Tống (Trung Quốc) là: Hứa Vĩnh Kiều, người làng Bồ Bát (Thanh Hóa), Đào Trí Tiến, người làng Thổ Hà (Hà Bắc), Lưu Phong Tú, người làng Kẻ Sặt (Hải Dương). Cả ba ông này, khi đi sứ đã học được nghề sứ gốm. Khi về nước, ba ông chọn ngày lành tháng tốt lập đàn ở bên sông Hồng làm lễ truyền nghề cho dân làng. Công nghệ có được phân như sau: Ông Kiều về Bồ Bát, ông Tiến về Thổ Hà, ông Tú về Phù Lãng, và:
- Làng Bồ Bát chuyên chế các hàng gốm sắc trắng.
- Làng Thổ Hà chuyên chế các hàng gốm sắc đỏ.
- Làng Phù Lãng chuyên chế các hàng gốm sắc vàng, thẫm.
Nửa năm sau nghiên cứu, chế tạo thành công, ba ông lấy các đồ gốm do tay mình chế được, dâng Vua xem. Nhà Vua thấy sản vật đẹp, liền khen thưởng các quan sứ thần bốn chữ “Trung ái Quán Thế” và phong cho ba ông danh “Khởi nghệ tiên triết”. Tục truyền, dịp này, dân làng ở ba nơi đều tế lễ sầm uất và linh đình. Sau dâng ba tuần rượu, dân chúng nhảy nhót hoan hô để biểu dương các ngài đem nghề về truyền cho dân. Sau khi ba ông mất, dân chúng ba nơi đều tôn ba ông là “Tổ sư”, tức “Tổ nghề”.
Phường gốm Bồ Bát sau có rời ra ngoài Bắc. Dọc theo con sông Hồng, tới một bãi sông có đất thó trắng, họ dừng lại lập lò gốm ở đó, với tên gọi Bạch Phường thổ, sau này đổi là Bát Tràng phường. Và ngày nay, ta quen gọi là Bát Tràng.
Đồ gốm thời Lý – Trần phát triển mạnh, nhiều ở số lượng và quý ở chất lượng. Thịnh hành hai loại gốm chính, là: (1) Gốm trang trí kiến trúc, thường là đất nung để mộc, hoặc phủ một lớp men có giá trị độc đáo. Ví dụ như gạch có in hoa văn để trang trí với nhiều dáng hình, kích thước khác nhau. Hoặc ngói bò có gắn đầu phượng, đầu rồng. Hoặc hình gốm trang trí hình chiếc lá nhọn đầu để gắn trên nóc hoặc riềm nhà… (2) Còn như gốm gia dụng, thì đủ thể loại. Nào bát đĩa, ấm, âu, chén, vại, chum, vò…
Đồ gốm thời kỳ này, ngoài ý nghĩa sử dụng trong nước, còn được xuất đi nhiều nước khác.
Lịch sử từng ghi lại, từ đầu nhà Lý đã có nhiều nước tới buôn bán, trao đổi hàng hóa với nước ta như Nam Dương, Xiêm La (Thái Lan)… Tới thế kỷ XII, các thuyền buồm ngoại quốc cập bến nước ta càng đông. Năm 1149, Triều Lý cho lập cảng Vân Đồn, để thuyền bè các nước vào ra buôn bán. Cho tới nay, dọc hai bên bờ bến cảng Vân Đồn còn lại nhiều mảnh gốm của nhiều thời đại ở Việt Nam sản xuất. Trong đó, có cả mảnh gốm men ngọc của thời Lý. Vậy, đó chẳng là dấu tích để khẳng định hàng gốm của ta từ xưa đã đạt trình độ cao đó sao?
Ở nước ta, có thời người dân cứ sính đồ ngoại. Ví dụ: Mặt hàng gốm men ngọc thời Lý của chính nước ta làm ra thì gọi là “gốm Tống” hoặc “đồ Tống”.
Hiện tại, ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam còn lưu giữ được nhiều đồ gốm, đồ sứ các thời đại của nước ta. Đó là những dấu tích để chứng minh kỹ nghệ phẩm ở nước ta sớm phát triển, và từ xưa, nghề gốm ở nước ta đã chiếm địa vị quan trọng trong nền kinh tế, văn hóa của dân tộc. Qua đây, chúng ta càng thêm yêu quý đôi bàn tay khéo léo và bộ óc giàu sáng tạo của những người thợ gốm Việt Nam. Để hiểu sâu thêm về nghề gốm, chúng tôi muốn giới thiệu một đôi nét về các kiểu lò gốm và men gốm từ xưa ở nước ta.
Lò gốm xa xưa
Thực ra, nguyên lý của lò gốm xưa và nay không khác nhau nhiều lắm. Nó vẫn dựa trên nguyên lý cơ bản, cấu tạo gồm 3 phần: bầu lò, thân lò, hệ thống ống khói. Chỉ có điều, lò gốm ngày xưa thì nhỏ bé và đơn giản.
Do sự phân chia công dụng của mỗi loại lò, nên đã có tên gọi riêng cho lò gốm: lò quan và lò dân. Sản phẩm lò quan chủ yếu phục vụ cung đình và giao bằng quốc tế. Còn sản phẩm lò dân là những vật dụng thông thường cho con người sinh hoạt hàng ngày như: cốc, bát, ấm, lò, lọ, chum, vại… Theo lệ thường, sản phẩm ở lò quan bao giờ cũng được đầu tư kỹ thuật cao hơn ở lò dân.
Theo tài liệu của Đỗ Văn Ninh (Viện Khảo cổ) về việc khai quật khu lò nung gốm sứ ở Bút Tháp (Thuận Thành) cho thấy: Khu lò nung gốm sứ này gồm 4 lò với cấu trúc kiểu lò tương tự giống nhau. Toàn bộ lò nhìn bên ngoài có hình quả dưa, giữa phình rộng, hai đầu cụt. Kích thước đo được ở một lò có hình thức bề thế và to lớn hơn ba lò kia, cho thấy: chiều dài 3,35 mét, chiều rộng nhất gần 2 mét. Như thế, quy mô của lò nung thời đó nhỏ gọn.
Điểm đáng chú ý là các lò gốm, hầu hết dùng nhiên liệu đốt bằng tre, gỗ; nhiên liệu than chưa dùng vào thời kỳ này. Qua đây, nó thể hiện tiêu chuẩn kỹ thuật nung thời đó và ý thức tự lực tự cường nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương rất cao.
Phần khác, thấy rằng, cấu trúc lò rất đơn giản và sáng tạo; thợ đắp lò thời xưa chỉ dùng đất sét mà đắp chứ chưa phải dùng tới gạch chịu lửa để cuốn bầu lò và thân lò. Trong khi đó, ở Trung Quốc, lò sứ gốm thời Đường không lớn lắm (thường dài 3 mét, rộng 2 mét), vậy mà đã phải dùng tới gạch chịu lửa để xây cửa đốt và xây ống khói.
Cũng theo tài liệu về khảo cổ học năm 1975 của Trần Đình Luyện (Sở Văn hóa Bắc Ninh) cho chúng ta biết thêm về khu lò nung gốm, gạch ở Đông Yên thuộc phần đất Bắc Ninh, nằm bên bờ sông Ngũ Huyện vào thời Lê Mạt. Cấu trúc của lò có khác kiểu lò ở Bút Tháp. Đó là lò gốm hình tròn, có đường kính 1,2 mét, tường lò đắp đất có lẫn mảnh sành gạnh nhỏ, dầy 1 mét, chân tường choãi, bên trên thu nhỏ dần theo kiểu vòm cuốn. Bầu lò được tạo hình phễu, đắp liền với tường lò, cũng bằng đất với bề dầy xấp xỉ 0,2 mét.
Qua khảo cứu, lò gốm ở Đông Yên có phần tiến bộ hơn ở Bút Tháp. Song cứ dọc tuyến tiến triển của các lò gốm qua các thời đại, ta thấy, cho tới đầu thế kỷ XX này, các lò nung mới được cải tiến một bước lớn. Đó là chuyển hình thức từ đun lò con cóc sang hình thức đun lò rộng nhiều bầu. Chuyển dần thể thức đun tre gỗ sang đun than và đun dầu. Đó là những bước tiến xa và khẳng định sức sống bất hủ của kỹ nghệ gốm thủ công.
Ngày nay, với kiểu lò gốm hiện đại, người ta đã thiết kế kiểu lò vòng liên hoàn. Đó là một hình thức của lò gạch tiên tiến. Người ta chỉ việc nhóm lò một lần, và ngọn lửa lò cứ cháy truyền từ bầu lò này sang bầu lò kia, ngọn lửa ấy cứ cháy mãi cho tới ngày lò hỏng. Những cải tiến văn minh đó, là khởi nguồn từ chiếc lò gốm cổ thô sơ thuở xưa…
Men gốm thời Lý – Trần
Thời Lý – Trần là thời thịnh vượng của kỹ nghệ gốm. Vì thế, men gốm thời Lý – Trần phong phú là điều tất yếu.
Trước thời kỳ này, một số đồ gốm ở dạng gốm mộc, không phủ men mà được bao ngoài một lớp áo gốm, khâu phủ áo gốm không phải nơi nào cũng làm, nhưng Thổ Hà và Phù Lãng đều có dùng tới áo gốm. Áo gốm là một dung dịch tổng hợp giữa đất và chay, với công thức 4 đất 1 chay. Đất là gốm, giã nhỏ, sàng lọc cẩn thận. Còn chay là một thứ đá có lẫn gỉ sắt ở ngay địa phương. Chay cũng phải giã nhỏ, sàng lọc kỹ càng. Có hai thứ đất và chay rồi, trộn lẫn, pha nước, hòa tan thành một dung dịch. Tất cả các đồ gốm trước khi đem nung được nhúng vào dung dịch này, tạo ra một lớp áo gốm. Nếu cứ thế đem nung lên, là có gốm đẹp rồi. Hoặc giả, muốn phủ men ngoài thì ta phủ men lên lớp áo gốm.
Hãy làm quen với ba loại men gốm tiêu biểu thời Lý – Trần. Đó là gốm men ngọc, gốm hoa nâu, gốm hoa lam.
Gốm men ngọc: Khi đã có xương gốm tốt, người ta phủ ngoài một lớp men dày màu xanh mát, trong bóng như thuỷ tinh, do đó mới gọi là gốm men ngọc. Đồ gốm men ngọc ở ta rất giá trị, được trong và ngoài nước ưa chuộng. Người ta thường sánh gốm men ngọc của ta với đồ gốm Long Tuyền thời Tống của Trung Quốc.
Gốm men ngọc thời Lý thường tạo xương gốm mỏng, thanh. Tới thời Trần, thì phần xương gốm chắc, dầy hơn. Hoa văn trang trí trên gốm, đa phần là hình tượng hoa sen cách điệu. Ngoài ra còn một số đề tài khác, như trang trí hoa thảo và các hoa dây chạy quanh bình gốm. Có ba hình thức trang trí trên đồ gốm: hoa khắc, hoa in và hoa đắp. Hoa in chìm hoặc đắp nổi thì dùng khuôn, còn hoa khắc thì đùng mũi dao đầu nhọn hoặc một đầu thanh tre vẽ lên xương gốm khi đất còn mềm. Khắc hoa rồi đem nhúng vào men, men đọng lại và tạo ra các hình hoa văn trang trí rất đẹp. Bên cạnh các đồ gốm men ngọc cầu kỳ và tinh xảo đó, người thợ thủ công còn sản xuất một số đồ gốm đại trà, có khi để mộc, có khi phủ lớp men mỏng màu vàng, màu nâu, hoặc màu da lươn mà xỉn màu và ít bóng. Loại gốm này để sử dụng thông dụng và ngay khi nung, người ta nung từng chồng cao.
Thời Lý, đồ gốm hầu như không viết chữ. Tới thời Trần, ta thường thấy dưới trôn các loại đồ gốm có hàng chữ mầu nâu “Thiên Trường phủ chế”.
Gốm hoa nâu: Đó là loại gốm đàn, kiểu dáng to, chắc chắn, cốt gốm dầy và thô. Bên ngoài có phủ lớp men trắng ngà hoặc vàng nhạt. Gốm hoa nâu xuất hiện vào cuối thời Lý đầu thời Trần.
Hình thức trang trí hoa văn trên gốm hoa nâu thường là hoa dây chạy viền quanh miệng đồ gốm. Đặc biệt, hầu hết các sườn gốm hoa nâu có đắp nổi hình hoa thảo, chim cò, thú bốn chân, hoặc tôm cá… rất sinh động. Các hình rồng trang trí ở gốm hoa nâu thời Trần có khác thời Lý. Đó là mình rồng khỏe mập, uốn khúc thoải mái, khác hẳn con rồng thời Lý thân hình thanh mảnh và uốn khúc gò bó.
Gốm hoa lam: là tên một hoại gốm phủ men trắng đục vẽ trang trí màu lam .
Để có màu men đẹp, điều cần thiết phải có cốt xương gốm tốt. Xem ra, thông thường thì xương gốm là đất sét có pha cát. Nếu gốm cổ, lại pha cả một số tạp chất khác như rơm, rạ, trấu hoặc lá cỏ dại để tăng độ liên kết.

Làng gốm Bát Tràng

 Đã từ lâu đồ gốm sứ Bát Tràng là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Theo các nhà khảo cổ, thì ngay thời Lý, thời Trần, sứ Bát Tràng đã được xuất đi nhiều nơi như: Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan, Bồ Đào Nha, Pháp… 
Ca dao cổ có viết:
” Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về x
ây “
  Theo truyền thuyết, người làng Bồ Bát (Thanh Hóa) từ thời Lý, ra Thăng Long lập nên phường gốm Bát Tràng ven bờ sông Hồng.
  Đầu tiên, làng có tên Bạch Thổ Phường, rồi đổi tên là Bát Tràng Phường, mãi sau này mới gọi là Bát Tràng. Nghề gốm ở đây hưng thịnh suốt từ thời Lý, thời Trần. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi có ghi: “Làng Bát Tràng làm đồ gốm. Làng Huê Cầu nhuộm vải thâm….”. Cũng theo sách Dư địa chí còn ghi “Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm – Huê Cầu thuộc huyện Văn Giang, hai làng ấy cung ứng đồ bang giao với Trung Quốc là bảy mươi bộ bát sứ, hai trăm tấm vải thâm…”.
  Đã từ lâu đồ gốm sứ Bát Tràng là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Theo các nhà khảo cổ, thì ngay thời Lý, thời Trần, sứ Bát Tràng đã được xuất đi nhiều nơi như: Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan, Bồ Đào Nha, Pháp… Qua khai quật ở cửa cảng Vân Đồn (Quảng Ninh), phố Hiến (Hưng Yên)…, ta còn gặp rất nhiều hiện vật gốm sứ Bát Tràng. Gốm Bát Tràng từ xưa đã có một phong cách đặc biệt, không lẫn với gốm sứ các địa phương khác.
Các mặt hàng gốm men ngọc, men hoa lan, men rạn của Bát Tràng rất đặc biệt. Như bát, đĩa, đôn, chậu, thống, chân đèn… của Bát Tràng từ xưa đã có một phong cách đặc biệt, không lẫn với gốm sứ Thổ Hà, Phủ Lãng, Hương Canh…
Từ thời xa xưa cho đến ngày nay, Bát Tràng vẫn luôn có hàng trăm lò gốm nhả khói. Cuộc sống lao động sản xuất thương mại ở đây, từ bao đời, vẫn luôn sôi động. Bến sông thuyền bè tấp nập chở than, củi, đất sét là nguyên liệu sản xuất đến Bát Tràng. Cùng hàng loạt thuyền bè chở sản phẩm gốm từ Bát Tràng đi các tỉnh gần, tỉnh xa. Vào làng, trong bất kỳ ngõ xóm nào, đều thấy tất bật người làm đất, người chuốt hình, người tráng men, người chuyển sản phẩm vào lò, người ra lò. Sản phẩm gốm bề bộn, bày biện trong nhà này, nhà kia, ngõ này, ngõ nọ. Bát Tràng là một công trường thủ công sôi động bậc nhất của đất Thăng Long xưa và nay.
Là làng nằm ven sông, nguồn đất làm gốm ở đây phải đi khai thác từ Sơn Tây, Phúc Yên, Đông Triều về. Nguồn đất sét ở Hồ Lao, Trúc Thôn rất tốt, sét trắng, mịn, chịu nhiệt cao.
rất được ưa chuộng trên thị trường hiện nayChỉ cần nói riêng công đoạn xử lý đất sét để làm gốm sứ ở Bát Tràng đã thấy lắm công phu. Đất sét chở về, được đổ ngâm vào hệ thống bể chứa bể lọc. Đất sét được ngâm trong nước một vài tháng cho phân rã, tới độ chín, đánh tơi, nhuyễn trong bể chứa, đoạn tháo xuống bể lọc cho lắng, lọc tạp chất hữu cơ nổi trên hớt bỏ. Phần đất sét nhuyễn, sạch lắng dưới được chuyển sang bể phơi, bể ủ. Tới đây, đất sét trắng, mịn, sánh như bột gạo, mới đem lên sản xuất gốm sứ được.
Dụng cụ sản xuất chính của lò gốm cổ là cái bàn xoay. Bàn xoay được chôn xuống đất, người thợ ngồi chân đạp bàn xoay, tay buông bắt từng thỏi đất, chuốt lên thành bình, thành lọ, bát, đĩa. Tay người thợ như có ngữ, họ làm thủ công, vậy mà các sản phẩm có độ giống nhau khá cao, như có khuôn dập. Mãi sau này, kỹ nghệ làm đất sét thật nhuyễn, rồi rót vào khuôn thạch cao để tạo nên các sản phẩm gốm mộc, đã là cuộc các mạng kỹ thuật với làng gốm. Hiện tại, số hàng gốm chuốt tay ở Bát Tràng còn duy trì, song ít. Đa số hàng rót khuôn, vì thế tạo năng suất rất cao cho thôn xóm.
Khi gốm mộc được phơi khô, chuyển qua công đoạn vẽ và tráng men. Người thợ gốm Bát Tràng có hoa tay vẽ hoa lá, chim muông, người vật để trang trí lên đồ gốm tăng vẻ đẹp. Men gốm Bát Tràng xưa nay được xếp hàng nhất so với các vùng gốm khác ở nước ta. Men ngọc, men hoa lam, men rạn… là những men truyền thống của Bát Tràng. Bí quyết pha men ở đây không dễ gì thợ gốm nơi khác bắt chước được.
Qua từng gia đoạn sản xuất, người thợ Bát Tràng lại cải tiến tạo nên nhiều kiểu lò nung gốm thích hợp. Từ kiểu lò cổ truyền xưa là lò ếch, tới lò dàn, lò bầu, lò hộp… mỗi loại lò nung lại thích hợp với từng loại sản phẩm khác nhau. Nguyên liệu để nung lò cũng được thay đổi theo tưng giai đoạn. Từ việc đốt lò bằng cỏ khô, rồi tiến tới củi, than đá, nay có lò thí nghiệm đốt bằng điện, bằng ga, đã dần nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật đã được áp dụng nhiều khâu trong sản xuất gốm, song riêng khâu đốt lò vẫn còn giữ nhiều tín ngưỡng. Ngày giờ đốt lò, ra lò, là những ngày thiêng liêng với thợ gốm. Kỹ thuật đốt lò quyết định chất lượng sản phẩm gốm sứ.
Ca dao cổ có nói về gạch Bát Tràng, đó là những viên gạch lớn được xếp làm bao thơi trong lò. Vì được làm từ chất đất sét tốt, được nung trong lò chín đều, nên những viên gạch Bát Tràng ngày xưa rất nuột, chín già. Gạch Bát Tràng xưa thường được dành để xây đình, xây chùa, bó quây bờ giếng, bờ ao làng. Những viên gạch tốt, xây trần, chịu mưa nắng bao năm trời, không rêu, không xói mòn, đủ biết kỹ thuật của người thợ gốm ra sao.

Làng gốm ven Sông Cầu

Làng gốm Thổ Hà thuộc vùng Kinh Bắc, nằm ven dòng sông Cầu. Con sông từ thuở nào đã đi vào lời ca “nước chảy lơ thơ…”. Giữa một vùng đồng bằng trù phú, nơi nhiều nghề phụ, xứ sở của quan họ, làn khói những lò gốm đã bay khoan thai tự bao đời… Thơ ca cổ, có rất nhiều vần thơ, bài thơ hay ca ngợi vẻ đẹp và sự trù phú của làng gốm ven sông. Ở đây tôi muốn trích ra một khổ thơ viết về làng gốm Thổ Hà của một nhà thơ. Đó là khung cảnh làm ăn tấp nập và sầm uất:
“Làng gốm cữ này đang độ lửa Khói cỏ de thơm khắp cả làng Thuyền đinh khoang nặng đang rời bến Thanh Nghệ xuôi vào, Tuyên Thái sang…”
                                                                          (Làng gốm Thổ Hà – Vũ Quần Phương)
Làng gốm Thổ Hà thuộc vùng Kinh Bắc, nằm ven dòng sông Cầu. Con sông từ thuở nào đã đi vào lời ca “nước chảy lơ thơ…”. Giữa một vùng đồng bằng trù phú, nơi nhiều nghề phụ, xứ sở của quan họ, làn khói những lò gốm đã bay khoan thai tự bao đời.
Trong Kinh Bắc phong thổ ký diễn quốc sự thời Lê có viết:
 ”Mã Đông Hồ gấm thêu hoa quyện Cày làng Lê dựng nghiệp nông gia Chĩnh chum thời có Thổ Hà “
Theo sử sách thì gốm Thổ Hà, gốm Bát Tràng, gốm Phù Lãng đã có từ thời Lý. Làng gốm Thổ Hà xưa ở núi Gốm (Quế Dương) rồi cứ tiến dọc triền sông. Qua Vạn Yên qua làng Đặng, làng Chọi, Quả Cảm… cho đến cuối đời Trần mới dừng lại Thổ Hà giờ đây(l).
Dấu vết trên đường rời quê ấy, dọc triền sông, nay người ta còn đào được nhiều mảnh sành mảnh sứ. Hẳn thời nguyên sơ, con sông Cầu còn vật vã dữ dội. Những làng xóm thuở ấy còn nhỏ bé. Cuộc sống con người còn gian nan. Thiên nhiên đầy khắc nghiệt. Để có sự bình yên như bây giờ, phải biết bao công sức của con người.
Tôi đi trong làng Thổ Hà đã bao lần, mà mỗi lần cứ nao nao xúc cảm. Những ngõ hẻm chạy dài sâu, hai bên bờ tường cao xây bằng tiểu, bằng vại nèn đất làm ngõ càng hẹp, càng hun hút hơn. Lối ngõ lát toàn mảnh sành, mảnh gốm vỡ. Một tiếng cười ở đầu ngõ cũng cứ âm vang. Mái ngói kề mái ngói ngả màu rêu. Những dãy lò đang ăn lửa. Vài chiếc lò con cóc bỏ không. Một khoảng trời xanh đất chợt ở cuối ngõ… Sự phồn thịnh ấy, tất cả đều do bàn tay con người.
Cụ Vọng, nghệ nhân xuất sắc của làng gốm nói với tôi về cái nghề gốm của làng cụ: “Đất và bàn tay mình thôi. Bao đời rồi chúng tôi nặn nồi bát ven sông…”. Phải! Thật kỳ lạ khi xem những mặt hàng gốm mà nơi đây làm ra. Từ cái vại mộc, đến cái thống men trồng hoa…, tất cả đều nặn từ đất. Người Việt mình gắn bó với bao đồ gốm, đồ sành. Từ khi ra đời cắt nhau cho vào cái nồi đất chôn ngoài cổng ngõ, rồi tắm lọt lòng trong cái chậu sành da lươn, lớn lên cầm bát cơm, cái điếu bát hút thuốc lào, cái nồi kho cá, cái vại muối cà, cái chum kê bên gốc cau hứng nước mưa… Rồi đến khi nhắm mắt nằm xuống, thay đổi hài cốt, người lại được nằm trong cái tiểu sành. Đất với người, người với đất gắn bó, thuỷ chung như thế. 
Thổ Hà xưa nay không có một thửa ruộng nào. Mọi công việc đều quay quanh mấy chục cái lò gốm. Xưa toàn xây kiểu lò con cóc… chưa có lò rồng nhiều bầu như giờ. Lò rải khắp làng như những con cóc cụ ngồi chồm hỗm. Những cột khói bốc lên nghi ngút khắp làng. Nhà giàu, có nhà hai lò. Nhà nghèo chung nhau mấy nhà một lò. Nghèo nữa thì đi làm mộc, đi gánh gồng thuê. Công việc vất vả nhất là khâu làm mộc. “Hòn đất mà vật lên nồi”. Bàn tay người làm nên cả thôi. Nào quây, vần, chuốt. Đất sét sau nhiều lần đảo trộn, cầm lên tay dẻo dai như cơm nếp. Không phải đất nào cũng làm gốm được. Cuộc di quê dọc sông Cầu xưa, chắc là cũng vì một phần theo nguyên liệu đất chăng? Thổ Hà có từng đoàn thuyền đi lấy đất. Có khi đi xa ngót hai mươi cây số tận Xuân Cai, Đồng Trũng mua đất về Người trong nghề quen rồi. Cứ nhìn sắc đất biết là mẻ gốm đẹp hay thường. Hòn đất cầm vê trên tay cứ mịn, dẻo là được mua với giá cao. Nay làm ăn có tập thể, đất tìm được ngay đồng gần làng không phải đi xa nữa. Lại có dự án cứ đào sâu dưới lòng sông Cầu, sét nhiều mà tốt lắm. Làng gốm thỏa sức mà làm…
Tôi cứ mê đi trước cảnh từng dãy nhà, các bác, các chị ngồi chân đạp bàn xoay, tay chuốt hình. Nào lọ, nào vò, nào chum, nào vại cứ hiện dần lên dưới tay người. Dưới đôi bàn tay ấy là cuộc sống bừng dậy. Ngày trước người làm gốm chỉ làm bộ, không biết rót khuôn như bây giờ. Ấy thế mà, con mắt và bàn tay thần kỳ làm sao, bao hình dáng cân đối và đều nhau như thế. Nay trong làng còn nhiều gia đình giữ lại được một số đồ cũ. Những chum, ang cao ngập đầu người. Những chiếc chậu cảnh nuôi cá rộng như cái nia. Những họa tiết, những đường riềm trên những đồ vật ấy cứ sống động, trẻ mãi. Từ khối đất sét dẻo quánh kia, người dựng hình lên thế nào. Bao đời, bàn tay con người mới kỳ diệu làm sao…
Cụ Vọng nói: “Là nghề của chúng tôi, mọi cái rồi quen cả thôi. Thật ra thì cũng khó khăn đấy. Khi làm mộc khô, đưa vào lò, hàng to thế, phải bốn năm người khênh, mà chỉ cần không đều tay một tí là vỡ, là âm ngay. Lại còn cho lửa ăn nữa. Nếu lửa già quá thì hàng bị nứt nẻ. Ăn non lửa, hàng lại rộp lên như bánh đa quạt than…”.
Ngày trước trong làng chỉ có vài người biết đun lò. Những sư lò được trọng đãi lắm. Lò này gọi, lò kia gọi. Ngày đun lò là ngày nôn nóng hơn. Từng đống cỏ tranh khô cứ vơi dần. Khi nhìn qua cửa lò, chum vại đỏ rực lên như sắp cháy. Ấy là hạ lửa. Chờ vài ngày sau lửa tắt, lò nguội dần là ra lò. Vui nhất là ngày ra lò. Lò này ra, lò kia ra. Trong nhà, ngoài ngõ tất bật hẳn lên. Thuyền đỗ đầy ngoài bến chờ ăn hàng. Những chiếc chum to hai người, bốn người đòn chão khênh. Chum nhỏ một người ôm một. Có người đội lên đầu, cứ thế lênh khênh mà đi. Tiếng cười oang oang đầu ngõ. Trẻ con cũng xúm vào làm theo. Đứa xách cái vò, đứa xách cái lọ chạy luýnh quýnh. Sân chứa hàng một lúc đã đầy cả lên nào chum, nào chĩnh, nào vại, nào chậu, nào nồi. Trời ơi, nhìn những mặt hàng ăn lửa chín đều, cứ xăn xắn, gõ vào thành nghe canh canh tiếng chuông lòng ai mà yên được. Cái niềm vui rân rân dâng lên như rượu mạnh… Làng gốm ở đây cứ liên tiếp những niềm vui như thế. Sau những mùa gốm, làng xóm lại thêm bao nếp nhà ngói. Cái ngõ lát mảnh sành, mảnh sứ cài răng lược lại kéo dài thêm ra…
Anh cán bộ kỹ thuật Dong đang say mê nghiên cứu cách pha chế men sao cho đẹp, vừa rẻ, lại vừa có sắc riêng của Thổ Hà. Trong phòng làm việc của anh đầy những vò, lọ, chậu, cốc đựng hóa chất. Học xong khoa gốm Trường Mỹ thuật Công nghiệp, anh xin về công tác ở đây. Buổi đầu tiên, sau khi đi thăm các bác, các anh thợ gốm làm việc, là anh đi vẽ bức tranh bột màu về cái cổng làng Thổ Hà. Bức tranh hiện nay anh vẫn giữ, phần là kỷ niệm, phần là ghi nhận ngày về với quê hương thứ hai của mình. Được biết anh vừa pha chế thành công một số mẫu men mới. Anh say sưa nói với chúng tôi về men nặng lửa, men nhẹ lửa. Và thật kỳ lạ, đồ làm bằng đất, lại lấy từ đất ấy làm men tráng lên, sau khi nung, hàng được tráng lớp men bóng và đẹp lạ. Anh đang băn khoăn làm sao tạo được nhiều mặt hàng đẹp, vừa mới, vừa giữ được đường nét dân tộc. Điều băn khoăn lớn của ngành thủ công là làm sao kế truyền được những tinh hoa của cha ông trước kia, kẻo mai một đi.
Làng gốm Thổ Hà, ngành nung nay đã có từng tổ nung. Những sư lò nay là những nghệ nhân già, là những thanh niên mới lớn lên. Và đặc biệt có cả con gái nữa. Câu chuyện của những sư lò mới dùng củi thay cỏ, dùng than thay củi thật vui, thật cảm động. Lớp thợ mới lớn lên trên đất quê mình. Với tinh hoa của cha ông, với trái tim mình, bàn tay người thợ gốm Thổ Hà ngày càng khéo hơn. 
Giờ đây tôi đang đứng giữa sân thành phẩm, lòng cứ rạo rực một niềm vui khôn kể. Nào vại nào chum. Nào lọ nào lò. Nào ấm nào nồi. Nào chậu hoa, nào đôn cảnh… Hàng thì trơn, hàng thì men hoa. Cụ Vọng nhấc lên một chiếc nồi đất, cụ nói với tôi: “Gì thì gì, chứ tôi cứ thấy cơm thổi nồi đất ngon hơn thổi nồi đồng, nồi nhôm…”. Tôi mải nghĩ miên man, vùng sông Cầu đây xưa thường có hội thi bơi thuyền nấu cơm. Phải chăng, xưa những cô gái vùng Kinh Bắc đây vận áo tứ thân, nón quai thao, hát quan họ, tay chèo thuyền, tay nhóm lửa thổi cơm bằng chiếc nồi đất như thế này? Nồi cơm nào ngon nhất hội đã dâng lên nhà vua? Bao vại muối dưa, muối cà kia đã nuôi lớn bao người?…
* * *
Nói về gốm Thổ Hà, cái chính, cũng là muốn để nói những nét tiêu biểu của gốm Phù Lãng (Đại Tân, Quế Võ) – hai làng gốm này đều nằm ven sông Cầu. Công nghệ ở hai vùng này đều có từ những năm ba ông tổ nghề đi sứ về, rồi dạy nghề cho dân làng. Phương pháp làm đất, lên xương gốm, vào lò nhóm lửa để nung đốt, rồi khi hạ lửa, ra lò… Ở hai làng gốm này, thao tác giống nhau lắm. Cách thức tổ chức sản xuất gốm cá thể xưa và gốm tập thể nay ở Thổ Hà cũng tương tự như ở Phù Lãng. Chỉ có một điểm khác nhau chút ít là ở mặt hàng: Gốm Phù Lãng hầu hết là gốm sinh hoạt thực dụng hàng ngày, như ấm, nồi đất, vò, lọ vại chum nhỏ… Còn ở Thổ Hà, ngoài các mặt hàng đó chúng tôi thấy có làm những mặt hàng lớn hơn. Như những chum đại, ang lớn và các kiểu tiểu sành ở Thổ Hà thì tự xửa xưa đã có uy tín lắm.
Hai làng giữ nghề sớm như nhau, sản xuất mặt hàng tương tự nhau, ấy vậy, Phù Lãng vẫn thiệt thòi hơn Thổ Hà, bởi lẽ, đa phần người ta chỉ biết tới Thổ Hà và đến Thổ Hà mua hàng, vì Thổ Hà gần trung tâm văn hóa – kinh tế – chính trị của tỉnh. Đường đi lối lại vào Thổ Hà cũng có phần gần và tiện lợi hơn.
Thuở trước, Thổ Hà cũng như Phù Lãng đều giấu nghề kỹ lắm. Hai nơi cùng công nghệ, vậy họ vẫn giữ bí quyết riêng của họ. Ngày nay, Phù Lãng và Thổ Hà đều đã có hợp tác xã gốm. Kỹ thuật nay là của chung, cùng nhau trao đổi, bàn bạc, chứ không còn phải giấu riêng, giữ riêng nữa. 
Gốm kiến trúc của Thổ Hà rất được ưa dùngHiện tại, ngoài việc sản xuất đồ gốm dân dụng, Thổ Hà và Đại Tân có sản xuất số lượng hàng gốm phục vụ kiến trúc đáng kể. Những đình chùa trong tỉnh, ngoài tỉnh cần trùng tu, là phải nhờ Thổ Hà và Đại Tân phục chế các kiểu ngói cổ. Hàng gốm kiến trúc như ngói bò, ngói ống, ống gốm thoát nước; các vật gốm trang trí kiến trúc như hoa cửa, tháp nhọn trên nóc nhà, do Thổ Hà và Đại Tân sản xuất, thì ai cũng ưa dùng. Nó vừa bền, vừa đẹp và giá cả lại phải chăng. Nói gì thì nói, gạch thất, gạch lục, gạnh vuông cỡ đại thì vẫn phải nói tới Bát Tràng. Còn như, gạch lá nem lát nền nhà, là phải tìm tới Thổ Hà sản xuất, vừa nuột mặt, vừa phẳng, lại đều nhau chằn chặn. Mười viên, cứ là cả mười giống nhau. Ngày xưa, lại còn làm cả loại gạch lá nem có tráng dầu trên bề mặt nữa. Nhìn viên gạch lá nem tráng dầu nhẵn bóng không kém gì gạch men hoa. Xem ra, ở nông thôn, người ta còn ưa dùng gạch lá nem Thổ Hà để lát nền nhà hơn cả gạch men. Bởi lẽ, màu gạch lá nem Thổ Hà là màu đất, đằm, không rực rỡ như gạch men và không trơn như gạch men. Ngoài ra, còn có ưu điểm khác, là loại gạch lá nem lại hút cả nước. Vì vậy, loại gạch này bốn mùa đều hợp với nhà ở thôn quê. Trời mưa dầm, trời trở nồm, thì nền nhà lát gạch lá nem Thổ Hà vẫn khô ráo, sạch sẽ.
* * *
Đất nước mình đâu cũng gặp những dòng sông. Sông vẫn bồi đắp phù sa lên bãi bờ. Muôn đời, dọc triền sông người vẫn dùng nồi, nặn bát. Cầm mặt hàng trên tay, tôi rưng rưng nghĩ về những người nghệ nhân gốm xưa kia. Rồi mai, người cầm mảnh gốm hôm nay, người sẽ nghĩ gì về quê hương, về những người thợ Gốm ngày nay? Hẳn muôn đời người sẽ mãi ngạc nhiên ở bàn tay con người…

Gốm Cậy

Cùng với các làng gốm Thổ Hà, Phù Lãng, Chu Đậu, Đông Triều, Bát Tràng…, gốm Cậy là làng nghề thủ công truyền thống lâu đời có một trình độ nghệ thuật cao, tạo được một dòng gốm men riêng biệt, góp phần làm phong phú gốm Việt Nam. Cậy là tên nôm của làng Kệ Gián, thuộc tổng Binh Dã, huyện Đường An, thời Lê, nằm bên hữu ngạn sông Kẻ Sặt. Sát làng Cậy có làng Hương Gián, sau đổi là làng Nam Gián, thuộc tổng Triền Đỗ cùng huyện. Cả hai làng này cùng dựng lò gốm, công nghệ làm gốm hai làng giống nhau. Vì nằm sát bến đò Cậy nên người dân quanh vùng vẫn quen gọi vùng gốm nơi này là gốm Cậy.
Làng Cậy có trên 600 hộ, ngót 300 khẩu, hơn 300 mẫu ruộng. Người đông, ruộng đất ít, công nghệ gốm đã thu hút nhiều người tham gia. Khách lạ đến làng Cậy, cũng dễ nhận ra nơi đây là làng gốm cổ. Làng nằm bên bờ sông, nằm trên tầng tầng lớp lớp gốm vỡ. Đường làng ngõ xóm hầu như được làm từ các mảnh gốm.
Làng Cậy có ngôi đình lớn, thờ thành hoàng Bảo Phúc Đại Vương, sống vào đời Hùng Vương thứ 17, có công giúp Vua Hùng chống giặc ngoại xâm, nhưng không biết có phải ngài là ông tổ nghề gốm ở đây không? Hay chăng tổ nghề ở đây chỉ là truyền thuyết?
Sản phẩm gốm ở Cậy cũng rất đa dạng. Nào bát, đĩa, ấm, chén, bình hoa… Nhưng đặc biệt là có loại gạch lớn được nung rất khéo. Gạch này vốn là bao thơi của gốm. Gạch của làng Cậy chín già, có kích thước lớn, thường được dùng làm chân kê cột đình, cột chùa và lát các lối đi trong đền, đình rất đẹp.
Các lò gốm ở Cậy lấy nguyên liệu đất sét ở đâu? Theo các cụ già ở làng, từ xa xưa, người thợ gốm Cậy lấy đất sét ở hai bờ sông của làng làm gốm. Loại đất sét này rất mịn, tạo ra sản phẩm gốm óng chuốt. Sau này, nguồn đất sét ở quê cạn kiệt, người thợ gốm Cậy phải dùng đất sét cao lanh khai thác tận Đông Triều – Quảng Ninh. Ngày nay, men gốm Cậy vẫn phải dùng đất sét cao lanh ở Hồ Lao, Đông Triều, nghiền lẫn cùng tro trấu, tro củi lọc kỹ. Men gốm Cậy thường là men màu lam nhạt, mang phong cách gốm Cậy, khác hẳn gốm Thổ Hà, gốm Bát Tràng.
Theo một số tư liệu, gốm Cậy đã từng chiếm được thị trường trong và ngoài nước. Hiện tại, ở Bảo tảng Cổ vật Topkápu Sarêgi tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ có lưu giữ một bình gốm hoa lam của làng Cậy. Bình gốm này cao 66 cm, chân tròn như quả bí đỏ, cổ thẳng và cao, hơi loe miệng. Sườn và đáy lọ trang trí hoa dây. Thân lọ có 13chữ “Hán Thái Hoà bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút”. Tạm dịch: Năm Thái Hoà thứ tám (1450) tại châu Nam Sách, thợ gốm Bùi Thị Hý vẽ.
Cùng với các làng gốm Thổ Hà, Phù Lãng, Chu Đậu, Đông Triều, Bát Tràng…, gốm Cậy là làng nghề thủ công truyền thống lâu đời có một trình độ nghệ thuật cao, tạo được một dòng gốm men riêng biệt, góp phần làm phong phú gốm Việt Nam.
Từng là một trong những địa chỉ “danh bất hư truyền” của gốm, tuy nhiên, hiện làng Cậy chỉ còn hơn 10 hộ duy trì nghề sành sứ, sản phẩm chủ yếu vẫn là chén bát, quy mô sản xuất nhỏ lẻ và manh mún. Hiện làng chỉ còn hai nghệ nhân gìn giữ được kỹ thuật bí truyền của gốm cổ xưa. Một trong 2 người đó – nghệ nhân Lê Xuân Năm, đang tìm hướng phục chế nghề làm gốm cổ của tiền nhân.
Nghệ nhân Lê Xuân Năm tâm sự: Cậy là một làng gốm nổi tiếng, đáng tiếc còn quá ít người gìn giữ được nghề cổ truyền. Phục chế mỗi sản phẩm gốm cổ vừa mất nhiều thời gian, cần sự khéo léo công phu, không thể chế tác hàng loạt như gốm hiện đại, nên không mấy người thích làm. Vì số lượng sản phẩm sản xuất còn ít nên cũng khó mở rộng thị trường tiêu thụ, càng khó hơn trong việc phục hưng thương hiệu”. Ông Năm luôn ao ước nhiều người dân làng Cậy cùng chung sức làm cho làng nghề gốm lớn mạnh.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét