Phạn ngữ Yoga, mà tiếng Tây Tạng đọc là
Rnal-ḥbyor, có nghĩa là ‘tương ưng’, tức là dùng phương pháp điều hòa
hơi thở để nhiếp tâm khiến cho đạt được trạng thái tương ưng với chánh
lý.
Yoga là một danh từ nam tính phái sinh
từ gốc động từ √yuj, bao hàm các nghĩa liên tiếp, tiếp hợp. Thuật ngữ
này được tìm thấy trong các sách thuộc thời đại Lê-câu-phệ-đà (Ṛg-Veda)
và Áo nghĩa thư (Upaniṣad), nó ám chỉ phương pháp điều hòa hơi thở và
quán sát nhằm đạt đến lý tưởng ‘Ngã Phạm nhất như’ (hiệp thông với Phạm
thiên). Như vậy, trong tôn giáo và triết học Ấn Độ xa xưa, việc tu tập
nhằm kết hợp với Phạm thiên hoặc sẽ cộng trú với Phạm thiên được gọi là
Yoga.
Trước khi Siddhārtha thành Phật, Ngài
đã từng thực tập phương pháp này với các bậc thầy Yoga như Ārāḍa Kālāma,
UdrakaRāmaputra. Sau khi thành Phật, Ngài cũng sử dụng phương pháp này
làm tiền đề cho các pháp môn tu tâm, tu tuệ mà Ngài đã khám phá ra,
nhưng Đức Phật sử dụng phương pháp điều hòa hơi thở không nhằm đến chứng
đắc các tầng thiền và càng không phải để cộng trú với Phạm thiên mà
hướng tâm đến tuệ quán duyên khởi nhằm chứng các thánh quả vượt ra ngoài
ba cõi.
Theo kinh Giải thâm mật, quyển 3, phẩm
Phân biệt Du-già giải thích thì chủ thể của Du-già là Chỉ (Samatha) và
Quán (Vipaśyanā). Trong đó, Samatha lấy sự không phân biệt ảnh tượng làm
sở duyên khiến cho tâm đạt đến cảnh giới hoàn toàn tịch tĩnh, bình
đẳng; Vipaśyanā lấy sự có phân biệt ảnh tượng làm sở duyên để quán sát
cùng khắp nhằm đạt được sở tri nghĩa. Mặt khác, về phương diện Kiến đạo,
Chỉ Quán phải song vận, lấy sự biên tế của tất cả pháp làm sở duyên để
chứng đắc; về phương diện Tu đạo thì phải tiến đến sự tu tập Chỉ Quán
bình đẳng; đến quả vị Phật thì lấy sự thành tựu viên mãn Sở tác trí làm
sở duyên để bắt đầu chuyển đắc Pháp thân thanh tịnh. Như vậy, Chỉ và
Quán làm chủ hết mọi quán hạnh, và vì vậy mà gọi là Du-già.
Trong cuốn Du-già sư địa luận thích, giải nghĩa từ Yoga là
bao gồm các pháp cảnh, hành, quả của tất cả các thừa, nó cũng bao hàm ý
nghĩa phương tiện thiện xảo, tương ưng với các pháp. Theo đó, Viên
trắc, trong cuốn Giải thâm mật kinh sớ, quyển 6, đã phân biệt thành bốn
nghĩa Du-già, là cảnh, hành, quả và giáo:
1. Cảnh Du-già: là hết thảy cảnh không
có tính điên đảo, không có tính chống trái nhau, mà nó có tính hay tùy
thuận, tính xu hướng cứu cánh, cùng hợp với lý giáo chân chính. Nó tương
ứng với chính, lý, giáo, hành, quả, cho nên gọi là Yoga.
2. Hành Du-già: là hết thảy các hành
tướng đều hỗ tương, hòa thuận với nhau, hợp chính lý, thuận chính giáo,
hướng đến chính quả.
3. Quả Du-già: là hết thảy các quả
chứng đều hỗ tương, hòa điệu với nhau, hợp với chính lý, thuận với chính
giáo, xứng chính nhân.
4. Giáo Du-già: là Tam thừa thánh giáo là hợp chính lý, thuận chính hành, dẫn tới chính quả.
Trong cuốn Thành duy thức luận thuật
ký, quyển 2, giải thích từ Yoga mà có nghĩa là ‘tương ưng’ là bởi vì nó
có 5 nghĩa tương ưng sau đây:
1. Tương ưng với cảnh: là bởi vì tự tính của tất cả các pháp không trái nghịch nhau.
2. Tương ưng với hành: là vì các hành tướng cùng tương ưng với định, tuệ…
3. Tương ưng với lý: là lý của nhị đế, gồm an lập và phi an lập.
4. Tương ưng với quả: là có khả năng đạt được quả vị Vô thượng bồ-đề.
5. Tương ưng với cơ: là khi đã chứng
đắc quả viên mãn rồi thì phải thực hiện lý tưởng lợi sinh, cứu người cứu
vật tùy theo căn cơ, tùy bệnh cho thuốc.
Đối với Mật tông, mà Kinh Đại nhật v.v… là nền tảng, đã phân biệt Yoga thành hai loại, hữu tướng và vô tướng.
Du-già hữu tướng là phương pháp luyện
tập tâm chuyên chú vào cảnh duyên có hình tướng (như thân tướng của bổn
tôn chẳng hạn…), trong khi quán tưởng, hình tướng được quán tưởng hiển
hiện rõ ràng trong ý thức, duy trì sự chuyên chú đó lâu dài mà không tán
loạn thì đắc được định, và từ đó mà nhập vào cảnh giới định ‘vô phân
biệt’, tức là thành tựu pháp tập Du-già hữu tướng.
Du-già vô tướng là phương pháp quán
tưởng ‘tâm chân thật’, lìa ngôn ngữ, không hình tướng, từ sự liễu ngộ
tâm chân thật và trên cơ sở định tâm với tâm chân thật ấy mà đạt được
‘vô tướng tam-muội’, tức là thành tựu Du-già vô tướng.
Kinh luận của Mật tông nói rằng từ cánh
cửa ‘Du-già hữu tướng’ có thể tiến vào ‘Du-già vô tướng’, và khi thành
tựu ‘Du-già vô tướng’ là đạt tới cứu cánh giải thoát. Kinh Đại nhật,
quyển thứ 7, ghi rằng: ‘Pháp vô tướng rất thâm sâu, kẻ liệt huệ không
thể nào kham nhậm được, nhưng vì muốn cho kẻ ấy cũng được pháp bình đẳng
nên đã phương tiện mở bày Pháp hữu tướng’. Đoạn kinh này, như vậy, đã
minh thị Hữu tướng du-già chỉ là phương tiện dành cho những người trí
tuệ kém cỏi, không đủ khả năng tiếp nhận trực tiếp pháp tu Vô tướng
du-già.
Một số người cho rằng, thành tựu pháp
Hữu tướng du-già chỉ có khả năng trị liệu được một số bệnh, đánh đuổi ma
quỷ… tức là những thành tựu khiêm tốn. Nếu như có thể tiến xa hơn,
thành tựu được pháp Vô tướng du-già thì mới có khả năng kéo dài tuổi
thọ, chứng đắc thần thông…
Những hành giả Du-già như Nhất Hạnh
(Trung Hoa), tác giả cuốn Đại nhật kinh sớ,Tsoṅ-kha-pa (Tông-khách-ba),
tác giả cuốn Mật tông đạo thứ đệ luận… đều nhấn mạnh sự tu tập tuần tự,
tiệm tiến, trước hết phải tu Hữu tướng du-già, cho đến khi được thành
tựu rồi thì ở trong định tâm mà khởi tu quán, quán ngược trở lại tự tâm
thì sẽ thấy, cái thấy đó sẽ là sự ngộ ra rằng tự tính vốn không, ngay đó
là chứng nhập Vô tướng du-già.
Trong Mật giáo họ cũng nói đến thuyết
‘tam mật Du-già tương ưng’. Theo đó, họ cho rằng, ‘tam mật Du-già tương
ưng’ cũng giống như ‘tam-muội tương ưng’, tất cả đều thuận với chánh lý.
Đại nhật kinh sớ, quyển 3, ghi rằng: “Khi vị giáo thọ (a-xà-lê) đã
chứng đắc pháp Du-già thì bất cứ việc làm gì cũng đều tương ưng với
tam-muội. Chẳng hạn, khi vị ấy dâng hoa cúng Phật, thì việc dâng hoa ấy
hoàn toàn ở trong định, cho nên gọi là ‘hoa tam-muội tương ưng’, trong
trạng thái tương ưng với định ấy, vị Bổn tôn hiển hiện rõ ràng trước
mắt. Nếu vị ấy cúng hương, đèn, nước… thì việc làm ấy cũng tương ưng với
định, gọi là hương tam-muội, đèn tam-muội, nước tam-muội… Mỗi mỗi việc
làm tương ưng với định thì vị Bổn tôn cũng theo đó mà hiển hiện rõ ràng
trước mắt. Như vậy, trong mỗi một duyên, mỗi một điều kiện đều là cánh
cửa để đi vào pháp giới, đều thấy được thiện tri thức, vận dụng xoay
tròn như vậy đều cùng tương ưng với chánh lý, không cần phải đợi đến khi
gặp sự mới bắt đầu khởi quán. Nên biết rằng, người ấy (tức vị giáo thọ
đã chứng Du-già) đã có thể thực hành pháp bí mật của một A-xà-lê.
“Người nghiên cứu và thực tập pháp
Du-già cũng là người khéo léo tu tập pháp tương ưng.Nghĩa là, đối với ba
bộ chân ngôn, thượng, trung, hạ mỗi mỗi bộ đều thành tựu thông đạt, đều
tương ưng với chánh lý, thì gọi là ‘Thiện tu du-già’.
“Lại nữa, trong pháp Tức tai (dứt trừ
tai họa), có thể sử dụng pháp tu này để làm phương tiện tu tập pháp Tăng
ích, Hàng phục. Hoặc trong pháp Tăng ích, cũng có thể sử dụng để làm
phương tiện tu tập pháp Hàng phục, Tức tai. Trong pháp Hàng phục cũng có
thể sử dụng để làm phương tiện tu tập pháp Tức tai, Tăng ích. Có nghĩa
là, pháp này tương ưng với pháp kia, các pháp tương tức với nhau, nếu
người nào có thể khéo léo phân biệt được thì gọi là ‘Thiện tu du-già’”.
Ngoài ra, chúng ta còn có khái niệm
Du-già sư để chỉ cho những người tu tập, thực hành các pháp quán hạnh
Du-già đã chứng thiền định tương ưng; phương pháp quán hạnh đó gọi là
Du-già hành; giai vị tu hành mà hành giả tu tập quán hạnh Du-già chứng
được gọi là Du-già sư địa. Mật giáo lấy tam mật Du-già làm tông, nên gọi
một cách tổng quan là Du-già giáo.
Theo Ấn Thuận, từ Du-già sư vốn chỉ cho
những thiền sư, là những đệ tử của Đức Phật thời cổ đại, chứ không phải
để chỉ cho những giáo đồ Phật giáo thời kỳ sau này chuyên lo việc lễ
bái, cúng kiếng, xem việc thực hiện nghi lễ như là phương pháp tu hành.
Trong quá khứ, những bậc thầy Du-già là những người ngoài việc chuyên
học kinh, luận, trì giới ra, họ chủ trương, đối với tự thân thì ‘tinh
cần thiền quán’, đối với tha nhân thì ‘đem giáo pháp để giáo hóa’.
Thiền quán là sự tu tập quán chiếu ngay
nơi thân tâm mình để thể nghiệm sự thật. Sự tu trì mà đạt đến cảnh giới
Chỉ Quán tương ưng, tâm cảnh hoặc lý trí tương ưng, khế hợp nhau thì
gọi là Du-già. Du-già như vậy có nghĩa là tương ưng. Mặc dù đây là một
trong những pháp tu tất yếu của những đệ tử Đức Phật, nhưng vì căn tánh,
sở thích… mỗi người khác nhau, cho nên thời xưa phân khoa từng ban giáo
gồm có Kinh sư, Luật sư, Luận sư, Du-già sư… để giảng dạy cho phù hợp
đối tượng. Ban Du-già sư là những thầy chuyên tu tập pháp Du-già, nhưng
những thầy trong Ban Kinh sư không phải không tu thiền quán, thầy Du-già
không phải không học kinh, luận.
Theo Giacngo
0 nhận xét:
Đăng nhận xét