I. KHÁI NIỆM VỀ VỌNG
Các Thiền sinh đang áp dụng pháp môn Tri vọng, trước tiên
cần biết rõ thế nào là vọng, thế nào là tinh thần Tri- vọng. Hiểu thật
tường tận, công phu của chúng ta mới có kết quả như ý.
Vọng là hư dối, không thật có. Đối với thân, Phật dạy đó là
do tứ đại hợp thành. Chất cứng như răng, tóc, móng, da, thịt, gân, xương
là đất; chất lỏng như máu, mủ, mồ hôi, nước mắt, nước bọt là nước; chất
nóng như hơi ấm trong người là lửa; chất động như hơi thở ra vào là
gió. Các thành phần trên gọi là tứ đại bên trong (sở tạo), phải vay mượn từ tứ đại bên ngoài
(năng tạo) mới có: mượn thức ăn và nước uống là đất và nước; mượn hơi
ấm từ mặt trời là lửa; mượn không khí để thở là gió. Mượn vào một thời
gian phải trả ra. Tựu trung, sự sống chỉ là vay và trả. Con người mạnh
khỏe khi việc vay trả điều hòa thông suốt; nếu có trở ngại ở bất cứ
giai đoạn nào, bệnh tật sẽ phát sinh. Ngày nay chúng ta đã biết, đơn vị
cấu tạo thành thân là tế bào; nhưng tế bào cũng được tạo nên từ nhiều
yếu tố, trong đó có những đoạn rất nhỏ của phân tử DNA nằm trong nhân,
gọi là Gen. Bản đồ Gen người được công bố chi tiết vào ngày
12/2/2001 cho thấy một điều đáng ngạc nhiên: Tất cả những đặc điểm về
hình dạng, bệnh tật, chức năng của toàn bộ cơ thể con người chỉ được
quyết định bởi 30.000 - 40.000 gen, số gen tương đương với gen của một
con ruồi giấm ! Như vậy, rõ ràng tấm thân mà lâu nay chúng ta
tôn quý, nâng niu, đáo cùng chỉ là tập hợp của những yếu tố vật chất nhỏ
nhoi và mong manh. Do nó không chắc thật, không có chủ thể, không nương
cậy được vĩnh viễn, nên Phật gọi nó là “Vọng thân”.
Suy xét tận tường bản chất của tâm, ta càng thấy rõ vấn đề. Những tư
tưởng, tình cảm, ý niệm lưu chuyển trong trí óc, lâu nay chúng ta cho đó
là tâm mình. Chính vì nhận tâm ấy là thật có, là mình, nên luôn luôn
cho điều mình nghĩ là đúng, ai nghĩ khác là sai. Từ đó sinh ra tranh
chấp cãi vã để giành phần thắng về mình. Đây là nguyên nhân của những
xung đột trong gia đình, xã hội, của những cuộc chiến tranh tôn giáo và ý
thức hệ, gây biết bao đau thương tang tóc cho hàng triệu gia đình.
Nhưng xét lại, những tư tưởng tình cảm ấy thoạt biến thoạt hiện không
chừng, lúc đến không biết đến từ đâu, khi đi cũng chẳng hiểu đi về
phương nào. Bây giờ ta nghĩ thế này, lát sau có thể đổi ý; bây giờ ta
cảm thấy vui, lát sau đã có thể nổi giận rồi. Nếu cho cái nghĩ này cái
vui này là mình, thì cái nghĩ kia, cái buồn nọ là ai? Mỗi ngày chúng ta
trải qua biết bao nhiêu tâm trạng, nghĩ suy biết bao điều, chẳng lẽ
trong mỗi chúng ta lại có nhiều người khác nhau đến vậy ? Cho đến những
kiến thức, kinh nghiệm về chuyên môn và đời sống, dù là kiến thức bác
lãm, cũng chỉ là vay mượn tom góp từ người khác, có gì là thật mình ?
Đức Phật thấy rõ điều này, nên dạy tất cả đều là “Vọng tâm”.
Các pháp bên ngoài, không có vật nào tự nó thành hình, mà phải nhờ
những yếu tố không phải nó kết hợp lại để thành nó. Các pháp cũng không
bao giờ dừng trụ, bất biến, mà luôn luôn thay đổi, sinh sinh diệt diệt
trong từng sát-na. Sự hiện hữu của chúng như vậy chỉ là biểu tướng chỉ
do duyên hợp mà có, và tồn tại trong sự chuyển động, sự biến đổi vô
thường. Cho nên, đó là “Vọng cảnh”.
Trong cuộc sống thường nhật, nếu thấu triệt được tính chất hư dối của
thân-tâm-cảnh, chúng ta có thể phần nào an lạc và bớt xao động trước
mọi chuyện buồn-vui, thăng-trầm, được-mất. Do biết thân là vọng, chúng
ta không mất nhiều thời gian và công sức để cung phụng, tô điểm cho nó,
hay thỏa mãn mọi đòi hỏi dù quá đáng của nó. Đời sống của chúng ta trở
nên giản dị và thong dong, ngày ba bữa cốt để no bụng đói, đêm một giấc
chỉ để lấy lại sức khỏe sau một ngày làm việc. Tất cả tài sản, quyền lợi
và khả năng sẵn có chỉ là những phương tiện để chúng ta giúp mình giúp
người. Khi đau ốm hay gặp tai nạn, chúng ta không buồn lo sợ hãi vì biết
thân là vô thường, không có chủ thể, cũng là đối tượng nhận chịu những
nghiệp báo mình đã gây ra từ trước. Đến khi hấp hối, chúng ta không
hoảng hốt và đắm luyến thân, nên dù chưa được tự tại trong sinh tử, cũng
có thể tái sinh về các cõi lành.
Biết tâm là vọng, chúng ta không còn chấp chặt những kiến giải,
những tình cảm của mình. Ta có sự thông cảm và độ lượng đối với người
khác, không bảo thủ ý kiến của mình, biết lắng nghe để hiểu và thương
được mọi người. Cho đến sự đổi thay tráo trở của người thân, của bạn bè
nếu có, ta cũng không xem đó là điều đả kích. Nhưng cần lưu ý ở chỗ:
Chúng ta không động tâm trước sự phê bình khích bác của người khác,
không bận lòng trước tình cảm thương - ghét, trọng - khinh, không có
nghĩa là chúng ta phó mặc hoàn cảnh đẩy đưa, mặc người xung quanh muốn
làm sao cũng được. Hiểu như thế là không thấy mặt tích cực của sự tu
hành. Chúng ta luôn bình tĩnh an nhiên trước mọi biến động của các pháp,
nhưng vẫn đánh giá đúng mức những việc xảy ra để sắp xếp chu đáo, giải
quyết ổn thỏa. Người thật tu không ngã mạn cũng không tự ti; những khó
khăn trở ngại hay thuận cảnh thuận duyên đều không làm họ rối trí hay
kiêu ngạo, mà tùy nghi xử lý một cách chu toàn. Cố gắng làm tròn trách
nhiệm đối với bản thân và với mọi người, nhưng họ biết tất cả đều là
vọng, nên tự nhiên họ ổn cố được tâm mình.
Đối với các pháp, khi biết chỉ là vọng cảnh, chúng ta không dao động
trước những biến đổi vô thường của kiếp sống. Mọi sự vật hiện tượng xảy
ra đều chỉ như giấc mộng đêm qua, đủ mùi tân khổ. Do
biết tất cả là mộng, chúng ta không còn đam mê những thú vui trần tục,
dù hàng ngày vẫn phải đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của bản thân. Từ đó,
phần nào ta bớt phiền não, cuộc đời ta bắt đầu đổi mới, từng bước tiến
trên lộ trình mà Đức Phật và chư Tổ đã đi. Nếu thường xuyên quán chiếu
sáu trần bên ngoài, sáu căn nơi thân và sáu thức ở tâm đều là huyễn
mộng, chúng ta sẽ phá được cái chấp ngã nơi thân tâm và chấp pháp nơi
cảnh, tức vào cửa nhà Thiền.
Nhưng có khi nào thiền sinh chúng ta tự hỏi: “Tu theo pháp môn
Tri vọng, sao lâu nay ta chú trọng đến vọng tâm hơn vọng thân và vọng
cảnh? Có pháp Tri vọng, tại sao không có pháp Tri chơn?” - Ta đã
biết, chúng sinh lên xuống trong sáu đường là do nghiệp thức dẫn lôi, dù
tạo nghiệp lành hay ác. Nghiệp phát sinh từ thân miệng ý, trong đó tâm ý
dẫn đầu. Nếu ý khởi niệm, ta hiểu là hư dối không theo, thì miệng và
thân không có cơ hội tạo nghiệp. Như vậy, không để vọng tâm dẫn lôi là
tu ngay gốc. Mặt khác, do vọng tâm đưa đẩy khắp nơi, chúng ta không thể
tỉnh giác để biết thân và cảnh cũng đều là vọng, nên trước tiên phải
phản tỉnh, không đồng hóa mình với vọng niệm; từ đó mới có thể thấy thân
mình và các pháp bên ngoài không thật có, không đáng nương theo. Biết
rõ những cái hư dối, không bị chúng lừa gạt sai sử, đó đã là giác. Điều
này có nghĩa, tri vọng tức là chơn, nên không cần thêm pháp “Tri chơn” nữa. Nếu có pháp ấy, “chơn” trở thành đối tượng bị biết, tức trở thành vọng mất rồi!
II. PHÁP TRI VỌNG
Tùy công phu của mỗi hành giả mà có kiến giải khác nhau, đôi khi trái
ngược nhau, về pháp Tri vọng. Tuy nhiên, nguyên tắc căn bản chỉ là một.
Pháp biết vọng là khi tọa thiền hoặc lúc đối duyên xúc cảnh, niệm
khởi lên ta liền biết đó là vọng tưởng, không bị nó lôi dẫn. Không chạy
theo vọng tưởng, vọng tự nhiên biến mất, ngay đó tâm liền an. Đây là
phương tiện cho những hành giả có chí tu hành nhưng chưa thấy tánh, phải
tạm dùng phương tiện này để phá chấp ngã về tâm. Đến khi vọng tưởng
lặng dứt thì pháp đối trị cũng dừng, đủ nhân duyên liền hội nhập tự
tánh.
Trong pháp Biết vọng có hai lối tu: Biết vọng liền buông vaø Biết vọng không theo.
A. BIẾT VỌNG LIỀN BUÔNG:
1.) Công phu buông vọng
“Buông” là một hành động của ý thức, có tác ý và có đối
tượng rõ ràng. Khi một niệm dấy lên, ta thầm nhủ đó là vọng và khởi thêm
niệm “buông!”. Đây là công phu theo hữu vi, có phân biệt đối tượng
buông là vọng và chủ thể buông là mình, tức còn năng và sở. Giai đoạn
này tuy tu trong đối đãi, nhưng rất cần cho những người sơ cơ, vì dù
sao, tỉnh giác biết được hành tung bất định và bản chất hư giả của vọng,
không để vọng lôi cuốn, là đã tiến một bước trên đường đạo.
Trong thực tế, khi mới bắt đầu công phu, ta không thể nào xa lìa ý
niệm phân ranh năng- sở, luôn luôn ta thấy có cái vọng nổi lên ở phía
trước, rồi bên trong ta hiện ra một cái hay biết vọng, dường như có cái
này biết được cái kia. “Cái này” là năng tri, “cái kia”
là sở tri. Ta lúng túng ở cái năng sở này, cứ đem cái năng tri năng
vọng buông cái sở tri sở vọng. Khi sở tri biến mất, ta thấy cần thiết
phải duy trì cái năng tri như người gác cửa; mà không hiểu rằng, do có
niệm “duy trì cái năng tri”, nên năng tri ấy đã biến thành sở
tri mất rồi! Năng đã biến thành sở, nên hết lớp vọng này lại nổi lên lớp
vọng khác. Đây là lối bắn cung của Thạch Củng, một mũi bắn một con, nên
sau buổi tọa thiền, ta cảm thấy có phần nặng nề mệt mỏi.
Công phu một thời gian, có tiến bộ, tọa thiền ta thấy yên ổn. Ta rất
thích trạng thái yên ổn này nên đâm ra sợ vọng, tự nhiên có một cái gì
luôn hờm sẵn, cứ lom lom nhìn vào khoảng trống vắng đó. Thật ra, trạng
thái trống vắng cũng chỉ là sở tri, dù vi tế hơn. Hành giả cần cảnh
giác, vì dễ lầm nhận đó là bản tâm thanh tịnh của mình.
Như vậy, khởi đầu của công phu là còn suy nghĩ lăng xăng, tức vọng
còn nhiều, khá hơn thì vọng thưa bớt, sau đó là hết vọng. Cả ba giai
đoạn vọng nhiều, vọng thưa và hết vọng đều là sở tri. Do còn sở tri nên
cái năng tri phải chực chờ mãi, không dám lơi lỏng. Ví như có căn nhà
sáu cửa (thân sáu căn), một tên trộm từ một cửa lẻn vào nhà (một căn
tiếp xúc với trần phát sinh thức, tức khởi niệm). Vì nhà có người gác
nên phát hiện ra, tên trộm liền trốn mất. Nhưng tên này rất ranh ma, lát
sau nó lại từ cửa khác đột nhập vào. Người gác cứ phải canh chừng suốt
ngày đêm, chờ có trộm vào liền điểm mặt. Canh cửa như thế chỉ được vài
ngày thì kiệt sức, lăn ra ngủ. Tên trộm tha hồ vào nhà, tha hồ ở bao lâu
tùy thích. Đây là lúc hành giả dụng công theo hữu vi một thời gian vẫn
thấy vọng hoài, đâm ra nghi ngờ pháp tu này. Cho nên, trong công phu mà
gia tâm trên bất cứ trạng thái nào cũng đều không đúng, dù gia tâm để
buông vọng hay để biết mình đang hết vọng. Vọng tự sanh tự diệt, chỉ là
hư ảo, là rỗng không, nên không cần bạo động tác ý lên nó. Buông vọng
một cách triệt để, buông luôn cả ý niệm phân ranh người buông và đối
tượng buông, buông trong trạng thái vô vi, thì mới có cơ hội để trực
giác phát sinh. Chúng ta sẽ đi sâu vào điểm này trong phần kế tiếp.
2.) Năm giai đoạn buông vọng
Nói về lý thì giác ngộ không qua thứ lớp, giác ngộ là Phật, mê là chúng sanh. Tuy nhiên, nói về sự
thì trong công phu phải trải qua nhiều trình tự. Ở đây, chúng tôi tạm
phân chia 5 giai đoạn từ thấp lên cao. Sự phân chia này chỉ có tính cách
tương đối, và chỉ có vai trò của những cột mốc tạm dựng trên đường:
a/ Giai đoạn 1: Người mới tu, nhờ đọc kinh sách và nghe
giảng mà hiểu được mọi tư tưởng tình cảm đều là vọng tưởng hư dối. Lúc
tọa thiền thấy vọng khởi, người ấy nghĩ “buông!”. Có khi không
tỉnh giác kịp, bị vọng dẫn lôi một lúc mới quay về. Cũng có khi vọng
lẫy lừng, buông không hết, phải quở mắng: “ Mày đã dẫn ta đi luân hồi nhiều kiếp, giờ lại muốn lôi ta đi nữa sao?”.
Đây là giai đoạn chăn trâu, trâu còn tánh hoang dã nên cần kết hợp dây
vàm là giới luật. Vọng là sở tri, người buông vọng là năng tri; năng sở
phân biệt rõ ràng.
b/ Giai đoạn 2: Hành giả hiểu được sở là vọng, năng cũng là
vọng. Đem vọng buông vọng thì đến bao giờ mới xong ? Do vậy, khi vọng
khởi, họ biết và buông; khi hết vọng, họ buông luôn cái biết vọng ấy.
c/ Giai đoạn 3: Cả năng vọng và sở vọng đều được xa lìa,
nhưng còn một cái lom lom nhìn chừng và thấy mình đang xa lìa. Cái lom
lom ấy cũng là vọng, dù vi tế, nên phải buông luôn.
d) Giai đoạn 4: Hành giả đang trong trạng thái vắng lặng
thanh tịnh, nhưng lại còn một niệm biết mình thanh tịnh. Đây là lớp vọng
rất vi tế, giai đoạn mà Duy thức học gọi là “thường chuyển như bộc lưu”. Một
dòng thác, ở xa tưởng như dải nước đồng nhất, nhưng thật sự là tập hợp
chuyển động của vô số giọt nước li ti. Lớp vọng vi tế này như chuyển
động của những giọt nước li ti ấy, mà nếu không tinh tế nhận ra, hành
giả tưởng mình đã thể nhập tự tánh. Do vậy, cần hết sức thận trọng.
e) Giai đoạn 5: Hành giả thấy nghe hiểu biết các pháp rõ
ràng mà không khởi một niệm nào. Đây là giai đoạn rõ ràng thường biết mà
bặt hết các duyên, là tự biết trong trạng thái vô vi, là tri kiến vô
kiến. Đây chính là thấy biết của tự tánh, bặt hết là tự tánh định tức giải thoát, rõ ràng thường biết là tự tánh huệ tức giác ngộ. Đây cũng là cảnh giới của Thiền sư Duy Tín “ba mươi năm sau thấy núi sông vẫn là núi sông”, của Thiền sư Thiền Lão “trăng trong mây bạc hiện toàn chân”. Các Ngài ở trong cảnh động mà vẫn bất động, biết rõ tất cả các pháp một cách như thị mà không xâm phạm các pháp, không nói tu mà chẳng phải không tu, làm tất cả vì chúng sinh mà cũng như không làm.
B. BIẾT VỌNG KHÔNG THEO
“Không theo” cũng là một hành động của ý thức, nhưng không
có tác ý và không cụ thể. Khi một niệm khởi lên, ta biết đó là vọng
tưởng, không dính mắc trên nó, vọng tự nhiên lặng. Có thể nói, không theo vọng
nghĩa là không có chủ ý tác ý trên vọng, cũng không dính mắc để bị vọng
lôi kéo, chỉ đơn thuần BIẾT đó là vọng, thế là vọng tự mất. Chỉ cần rõ
vọng, không cần làm gì khác, ngay đó đã là giác.
Trong kinh Niệm Xứ, Phật dạy chánh niệm trên mười sáu loại tâm hành
sinh diệt, tựu trung cũng chỉ một chữ BIẾT: Tâm tham biết có tham, không
tham biết không tham, sân si... cũng như vậy. Phật không dạy phải diệt
tâm tham hay giữ tâm không tham, mà chỉ cần BIẾT. Mười sáu loại tâm hành
chính là vọng tưởng ở đây muốn nói.
Pháp Biết vọng không theo là một lối tu nhẹ nhàng, nhưng cần
có kiên nhẫn và ý chí. Bởi vì trong giai đoạn đầu, do chúng ta quen để
tâm dong ruổi lăng xăng như vượn chuyền cành, nên không theo vọng này
thì lại có vọng khác tiếp tục nổi lên. Cứ bền chí nhận diện chúng, một
thời gian chúng sẽ thưa dần. Biết rõ vọng là hư dối tức từng bước chúng
ta phá chấp ngã về tâm; nếu ngoài giờ tọa thiền, chúng ta quán chiếu về
sự giả hợp của thân và cảnh, đó là chúng ta đang đi trên đường giác ngộ
vô ngã. Khi đủ thời tiết nhân duyên, chúng ta sẽ có cơ hội nhận ra bản
tâm thanh tịnh thường nhiên của chính mình. Có thể nói, pháp Biết vọng
phù hợp với kinh điển, càng xem kinh càng rõ thêm pháp tu, càng tu lại
càng sáng được ý kinh. Đây là lý do vì sao chúng ta cần thực hiện phương
châm “Thiền-Giáo song hành”.
Đối với những hành giả có duyên nhiều đời với Thiền tông, khi tọa
thiền biết vọng, họ còn nhận ra điều này: Khi có vọng và khi không vọng
ta đều biết, biết nhưng không có tác ý trên vọng. Không có tác ý nên
không còn đối đãi, không còn phân biệt người biết (là mình) và đối tượng
biết (là trạng thái có vọng hay không vọng). Không còn phân ranh năng
và sở, chủ thể và đối tượng, thì ngay tức khắc ở trong trạng thái nhất như. Vì sao được như thế? - Bởi vì vọng tưởng là huyễn nhưng luôn ở trong như, vọng và chơn chỉ là hai mặt của một thực thể và bình đẳng trong Như tánh; cũng như sóng rõ ràng là nước, muốn tìm nước phải ngay sóng mà tìm. Đây là ý nghĩa mà Phật dạy trong pháp Quán tâm trên tâm: Bao nhiêu vọng niệm sinh rồi diệt đều nằm trong vùng ánh sáng của chánh niệm,
không thoát khỏi chánh niệm dù ta không tác ý. Đây cũng là mũi tên của
Mã Tổ, một mũi bắn một bầy. Công phu như thế này, người tu rất thảnh
thơi, ít tốn công sức mà kết quả lại tốt đẹp; vì tu trong tinh thần vô
vi, do nhân vô sanh nên được quả Phật thường trụ. Dĩ nhiên, cần giản
trạch với lối dung vọng của phàm phu. Dung vọng là mặc tình để vọng khởi
lên và lôi dẫn ta quay cuồng theo các cảnh, đó là thất niệm, là gốc tạo
nghiệp khiến quẩn quanh trong lục đạo. Còn biết vọng mà không tác ý là
tỉnh giác thường xuyên để nhận diện mọi hành tung của vọng, là chánh
niệm trên từng đợt sinh diệt của tâm, là lối tu chân chính đưa đến giác
ngộ và giải thoát.
Chúng ta có thể dùng bốn câu kệ sau đây của Thiền sư Huyền Giác, để áp dụng vào công phu Biết vọng không theo:
Tỉnh tỉnh lặng lặng phải
Tỉnh tỉnh tán loạn sai
Lặng lặng tỉnh tỉnh phải
Lặng lặng hôn trầm sai.
Tỉnh tỉnh lặng lặng phải: Một niệm dấy lên, ta tỉnh giác
biết rõ. Biết nhưng không tác ý, không khởi thêm niệm “buông” hay “không
theo”, nên là lặng. Tỉnh tỉnh là huệ, lặng lặng là định, tức định - huệ
đồng thời, thể - dụng không hai.
Tỉnh tỉnh tán loạn sai: Tỉnh là biết có vọng khởi, nhưng lại thêm niệm “không theo” nên có tác ý, là tán loạn, tức sai với ý chỉ.
Lặng lặng tỉnh tỉnh phải: Tâm yên tĩnh lặng lẽ nhưng vẫn rõ ràng biết khi có vọng hay không vọng. Biết tất cả mà không có một niệm, kể cả niệm “ta đang yên tĩnh”.
Lặng lặng hôn trầm sai: Hôn trầm ở đây chỉ chung ba trạng
huống mờ mịt của tâm thức, từ nhẹ đến nặng gồm Vô ký (lơ mơ), Hôn trầm
(không biết gì chung quanh) và Thùy miên (ngủ gục). Nhà Thiền gọi là
“hang động của quỷ”.
Nói chung, tọa thiền đúng pháp là tỉnh và lặng phải đi đôi, định- huệ
đồng đẳng, tỉnh giác biết rõ vọng khởi mà không tác ý gì trên vọng. Có
thể nói, tọa thiền là chỉ ngồi tỉnh biết, không phải ngồi dụng công
nhưng cũng không phải chẳng dụng công; vì dụng công là hữu vi tác ý, mà
chẳng dụng công là dung túng vọng tưởng. Chúng ta không thể dùng ngôn
ngữ diễn tả cách hành trì như thế nào, chỉ tạm nói là “Biết tất cả mà không khởi niệm”. Hành giả nên khéo hội lấy.
Để làm sáng tỏ thêm lối tu vốn dĩ vi mật này, xin trích dẫn bài kệ của một Thiền sư đời Tống:
Học đạo du như thủ cấm thành
Trú phòng lục tặc dạ tinh tinh
Trung quân chúa tướng năng hành lệnh
Bất động can qua trị thái bình.
Nghĩa:
Học đạo giống như giữ cấm thành
Ngày ngừa lục tặc, tối tinh tinh
Trong Quân chúa tướng hay hành lệnh
Chẳng động gươm đao trị thái bình.
Người học đạo giống như người giữ một thành cấm có sáu cửa, không cho
giặc vào làm loạn, ngày đêm đều tỉnh giác, tinh ròng không xen tạp.
Trong đội quân có viên chúa tướng chỉ huy canh gác bố phòng nghiêm mật,
nhưng đặc biệt là chẳng động gươm đao mà thiên hạ tự thái bình. Cấm
thành sáu cửa dụ cho thân người có sáu căn, nếu không ròng rã ngày đêm
canh giữ, thì sáu trần như sáu loại giặc sẽ thừa cơ hội đột nhập. Viên
chúa tướng là trí dụng hằng soi của mỗi người, luôn tỉnh luôn sáng.
Nhưng vì sao không cần đến gươm đao mà vẫn yên ổn?- Không động gươm đao
nghĩa là vô vi, là hành động vô hành. Mọi vọng tưởng phát sinh do sáu
căn tiếp xúc sáu trần, như lũ giặc tìm cơ hội quấy phá. Người tu chỉ cần
luôn tỉnh giác biết rõ lúc nào vọng sinh, lúc nào vọng diệt. Chỉ cần
biết là vọng tự lặng mà không cần khởi thêm niệm nào, nên nói không sử
dụng vũ khí mà giặc tự lui binh.
Trên đây là một vài vấn đề đóng góp trong công phu từ kinh nghiệm bản
thân. Mong rằng tất cả chúng ta, khi thực hành pháp Biết vọng, cần nắm
vững yếu lý để công phu được nhẹ nhàng. Chính trong công phu nhẹ nhàng
mà có kết quả ấy, chúng ta mới đến gần chỗ vốn dĩ bình yên xưa nay. Chỗ
đó không phải ở nơi đâu xa vời khiến chúng ta phải nhọc lòng tìm cầu,
đuổi bắt; nó ở ngay tại đây và bây giờ, nếu tâm ta lặng lẽ mà hằng tri. Đây là điều thật đơn giản nhưng cũng thật diệu kỳ, mà mỗi thiền giả phải tự mình thể nghiệm.
III. TÁNH BIẾT VỌNG
Phần trên, chúng ta đã khảo sát về pháp Biết vọng. Gọi là “pháp” vì
vẫn còn có phương pháp hành trì, vẫn còn thứ lớp và diễn tiến từ từ. Ở
đó vẫn còn có cái vọng bị biết và cái tâm hay biết, nghĩa là còn phân
ranh năng sở chủ khách trong công phu. Pháp Biết vọng được xem là giai
đoạn đầu của pháp môn Tri vọng.
Những thiền sinh tu tập nhiều năm, hoặc có căn cơ nhạy bén, nên khéo đi vào tinh thần Bất nhị. Khi chim hót, ta nghe có tiếng chim; khi chim không hót nữa, ta nghe không có tiếng chim. Rõ ràng cái nghe
không bao giờ vắng mặt, dù có tiếng hay không có tiếng. Có vọng hay
không vọng cũng thế, chỉ là hai tình huống đắp đổi thay phiên nhau, còn
cái biết luôn luôn hiện hữu. Trong ánh sáng chánh niệm, các trạng huống
luân phiên ấy không hai không khác. Và cái quán triệt tất cả mọi hoàn
cảnh tình huống ấy, cái ánh sáng chánh niệm hằng tỉnh hằng giác ấy,
không bao giờ thiếu vắng, dù đang ở thời điểm nào, nơi chốn nào. Đây là Tánh biết vọng.
Chúng ta cùng xem qua một số ví dụ sau đây, minh họa cho phần này:
1/ Ví dụ 1
Kinh Lăng- Nghiêm có đoạn mô tả cảnh Đức Phật bảo La-Hầu-La đánh một
tiếng chuông, nhân đó Ngài giảng cho đại chúng về tánh nghe. Tiếng
chuông lúc có lúc không, nhưng tánh nghe luôn luôn có mặt. Cũng vậy, các
tâm niệm lăng xăng khi khởi khi diệt, nhưng có một cái gì luôn quán
xuyến chúng. Trong kinh Niệm-Xứ, Phật dạy tuệ tri 16 loại tâm hành, cũng
trong ý nghĩa này. Cái quán xuyến tuệ tri được tất cả tâm sinh diệt, đó
là Tánh biết vọng.
2/ Ví dụ 2
Một đoạn khác trong kinh Lăng-Nghiêm, lúc Đức Phật đưa cánh tay lên,
tôn giả A-Nan thấy có tay. Nhưng khi Phật bỏ tay xuống, Tôn giả thưa
rằng không thấy. Thật ra, lúc ấy Tôn giả thấy không có tay chứ không thể
nói không thấy. Nếu cái thấy không còn, làm sao Tôn giả biết không có
tay ? Cho nên, giống trường hợp tánh nghe ở trên, có vật hay không vật
là chuyện bên ngoài, còn thấy nghe là chuyện của mình, không lúc nào
vắng thiếu. Tánh biết vọng cũng như thế.
3/ Ví dụ 3
Người bị nhặm mắt thấy hoa đốm loạn xạ trong hư không. Vì sao có hoa
đốm?- Vì mắt bệnh. Hoa đốm sanh ra đối với người bệnh mắt, còn không
sanh với người có mắt bình thường. Như thế, hoa đốm không thật sanh; do
không thật sanh nên cũng không thật diệt.
Hoa đốm thật ra không có sanh và diệt, bởi vì nó không thật có. Vọng
cũng như vậy. Ý thức dấy khởi khi căn trần giao thoa. Căn và trần đều do
duyên sinh không thật, nên thức khởi cũng chỉ là vọng tưởng. Chúng ta
tọa thiền, những hình ảnh lưu trong tàng thức được dịp trổi dậy với đủ
mọi hình thái. Nếu cho đó là thật, bị nó dẫn dắt là phàm phu; nếu đè ép
diệt trừ nó là tu chưa đúng pháp. Tọa thiền chỉ cần luôn luôn tỉnh giác,
bao nhiêu vọng tưởng sinh diệt đều biết rõ, thế là đủ. Lục Tổ dạy: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”.
Giác chậm nghĩa là không kịp thời phản tỉnh ngay khi vọng vừa sinh,
không theo dõi suốt quá trình sinh khởi, tồn tại và đoạn diệt của vọng,
cũng như không thấu suốt tính hư ảo huyễn mộng của chúng. Nhận chân được
tiến trình của vọng cũng như thấu triệt bản chất hư huyễn ấy, chính là Tánh biết vọng.
4/ Ví dụ 4
Một đóa hoa được đưa ra trước mắt. Đóa hoa là một vật có hình tướng
rõ ràng. Vật có hình tướng nằm trong hư không chẳng hình chẳng tướng,
vật ấy cách hư không bao xa? Mặt khác, đóa hoa được tạo nên từ nhiều yếu
tố nên nó không đồng nhất, không có chủ tể, vì thế tánh nó là Không. Tự
tánh không nhưng hình tướng giả có: Chúng ta đi vào tinh thần “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”, ngôn ngữ Bất nhị của Phật môn.
Hiểu tường tận hai vấn đề trên, ta trực nhận ra rằng: Hoa là vật thể
hư vọng đổi dời nhưng không rời khỏi hư không chẳng hề dời đổi; hoa là
hiện tượng sinh diệt trong bản thể hư không bất diệt. Lúc đủ duyên, hoa
thành hiện tượng; khi hết duyên, nó trở về bản thể hư không. Rõ ràng,
hiện tượng và bản thể không hai không khác. Tương tự, vọng tức là chơn,
chơn tức là vọng. Nếu cho vọng là cái phải trừ diệt, chơn là cái cần thủ
đắc, ta đã rơi vào trạng thái thủ xả nhị biên.
Kinh Duy-Ma nói: “Bất tận hữu vi, bất trụ vô vi”. Bồ Tát
không dẹp trừ hết hữu vi và cũng không an trụ vào vô vi, không thấy
Ta-bà đáng chán bỏ và Tịnh-Độ đáng ưa thích, không diệt tận phiền não
cũng không thủ chứng Bồ-Đề. “Bồ-Tát thương chúng sanh, không nỡ dẹp trừ hết vọng tưởng”,
vì như vậy sẽ không còn trở lại cõi Ta-Bà làm lợi lạc quần sinh. Đối
với các Ngài, phiền não tức Bồ-đề, sinh tử tức Niết-bàn. Đây là tinh
thần Bất nhị độc đáo của Phật giáo Đại thừa và Tối thượng thừa Thiền, cũng là tinh thần của Tánh biết vọng.
5/ Ví dụ 5
Trên biển có muôn ngàn đợt sóng. Sóng là hiện tượng có sinh có diệt,
còn bản thể nước thì chưa từng sinh diệt bao giờ. Lại nữa, sóng dù sinh
hay diệt cũng không ra khỏi nước, cho nên sóng và nước không hai.
Phiền não là những đợt sóng. Muôn ngàn đợt sóng phiền não dù biến dù
hiện cũng không khi nào rời khỏi biển chân-như. Tại sao ta thấy sóng
phiền não là đáng sợ mà biển chân như là miền đất hứa? Bỏ phiền não rồi,
liệu ta tìm được chân-như chăng?
Thân năm uẩn khi còn khi mất cũng là đợt sóng lúc sinh lúc diệt. Sóng
năm uẩn là hình tướng, biển tự tánh là bản thể, sóng và biển không hai.
Tại sao ta không ngay nơi sóng mà khéo thầm nhận biển, ngay vọng tưởng
biến thiên mà nhận ra tánh biết thường hằng?
Một điều khác, thân ta là sóng thì thân người khác có phải là sóng
không ? Rõ ràng tất cả chúng sanh đều là những đợt sóng, dù hình thái
khác nhau nhưng cùng có bản chất là nước. Thấu triệt điều này, ta cảm
nhận một sự hòa điệu tột cùng với tất cả mọi loài chúng sanh, nỗi khổ
niềm vui của kẻ khác cũng chính là khổ vui của chính mình. Tự nhiên ta
sẽ có ý nguyện dâng hiến trọn vẹn cho tha nhân, xa lìa ngã tướng; và
tinh thần “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người” mới được thực hiện với đầy đủ ý nghĩa cao quí của nó.
Lại nữa, chúng sanh là những đợt sóng còn chìm đắm nổi trôi trong
giòng sinh tử, do quên bản thể của mình. Đức Phật là bậc giác ngộ, trở
về với tự tánh thường nhiên nên Ngài là nước. Nước không khác sóng nên
Phật nào khác chúng sanh, chỉ vì có ngộ có mê nên nghìn trùng sai biệt.
Điều này khiến cho ta phát khởi một niềm tin mãnh liệt, rằng tất cả mọi
chúng sanh đều có chánh nhân thành Phật. Vấn đề ở chỗ, chúng ta có nắm
vững pháp tu và có tinh cần công phu theo chánh pháp hay không.
6/ Ví dụ 6
Khi đèn bật sáng, mọi vật trong phòng hiện bày rõ ràng. Khi tắt đèn,
phòng tối om, mọi vật đều không được nhìn thấy. Có ánh sáng, ta thấy
vật; không có ánh sáng, ta thấy tối. Điều này chứng tỏ:
1. Cái thấy không khi nào vắng mặt, do đủ duyên (có ánh sáng) thì
thấy vật, không đủ duyên thì thấy tối. Như vậy, sáng và tối là hai mặt
đắp đổi cho nhau, tùy duyên mà hiện tướng, còn thể tánh hư không chỉ có
một. Sáng và tối không hai, vọng và chơn cũng thế. Do tối mới lập bày ra
sáng, do vọng mới nói đến chơn, còn tánh thấy hay tánh biết luôn luôn
hiện hữu.
2. Khi đèn sáng, ta thấy mọi vật được sắp xếp thứ tự. Lúc
tắt đèn, mọi vật vẫn ở nguyên đó chứ không biến mất. Cũng vậy, khi Đức
Phật giác ngộ, trong ánh quang minh Ngài thấy toàn bộ vũ trụ vạn hữu đều
là Phật pháp, mười phương thế giới đều là Tịnh độ. Còn chúng ta, do vô
minh tăm tối, nên nhìn đâu cũng thấy phiền não khổ đau, thế giới là cõi
Ta-bà uế trược. Cùng một thế giới mà thấy biết khác nhau, đó là do người
nhìn đã giác hay còn mê. Thế thì chúng ta có phải lặn suối trèo non để
tìm cõi Phật, hay đã thấm thía câu “Phật pháp tại thế gian” của Lục Tổ Tào-Khê?
7/ Ví dụ 7
Mái nhà có lỗ hổng, ánh sáng mặt trời xuyên qua tạo một vùng sáng.
Trong vùng sáng này, ta thấy vô số hạt bụi bay lượn; tùy có gió mạnh hay
yếu mà bụi bay nhiều hay ít.
1. Bụi bay là động, ánh sáng là tĩnh. Bụi nhiều hay ít đều nằm trong
vùng sáng, vì ngoài vùng này ta không thấy có bụi bay. Cũng vậy, vọng
tưởng sinh diệt dù nhiều hay ít đều không thoát khỏi tự tánh hằng tri.
Đây là tinh thần của Tánh biết vọng, quán xuyến tất cả mọi tình huống, dù có vọng hay không.
2. Còn ánh sáng, ta còn thấy bụi; khi mặt trời lặn, ta hết
thấy bụi bay. Thật sự lúc ấy có bụi không? Trong công phu, có lúc ta lầm
lẫn tương tự như thế. Do bị lôi cuốn bởi trần cảnh nên ta không nhận ra
các trạng thái của tâm, tưởng mình không còn vọng tưởng. Ví như khi
chăm chú thưởng thức một bản nhạc hay, ta tưởng mình hoàn toàn vắng
lặng, thật ra mình đang bị lôi cuốn theo tiếng nhạc nên quên mất mảnh
đất thực tại của tâm mình.
3. Bụi bay nhiều hay không là do gió mạnh hay không có gió.
Những hiện tượng này không ra khỏi hư không, và cũng chẳng ảnh hưởng gì
đến hư không. Bụi bay là động, là biến đổi; hư không là thể tánh bất
động thường hằng. Nhận được thể tánh hư không bất động thì phải khéo
nhận tinh thần Tánh biết vọng.
8/ Ví dụ 8
Người chủ nhà tiếp khách. Khi khách đến đông, chủ nhà biết có khách
nhiều; khách về bớt, chủ nhà biết khách còn ít; khách về hết, chủ biết
không còn khách. Nhà không còn khách nhưng chủ nhà luôn luôn có mặt.
Khách nhiều, khách ít, không khách là ba tình huống của khách, không
dính dáng đến chủ nhà. Khách là đối tượng nhận thức, chủ nhà là chủ thể
nhận thức.
Tương tự trong công phu, có vọng nhiều, vọng thưa hay hết vọng đều là
những trạng huống của đối tượng nhận thức. Còn cái biết được, xuyên
suốt được cả ba trạng huống ấy là chủ thể nhận thức. Đối tượng thì biến
đổi, khi loạn động, khi lặng lẽ; còn chủ thể thì chẳng chuyển dời mà
luôn tỉnh biết. Sao ta không khéo nhảy thẳng vào chỗ đó để lập thân, mà
cứ mãi băn khoăn về vọng sinh vọng diệt?
Những ví dụ trên đây phần nào giúp chúng ta có một cái nhìn đúng đắn
về các pháp thế gian và xuất thế. Vọng và chơn chỉ là hai mặt của một
thực thể, do có vọng mới lập bày ra chơn, lập bày một cách ước lệ theo
qui ước pháp thế gian. Thật sự, vọng và chơn không hai không khác: đây
là tinh thần “Liễu vọng” tức Tánh biết vọng. Hiểu được
bản chất của vọng, chúng ta không cần đè nén đàn áp vọng tưởng; vì dùng
bạo lực trên vọng thì có lúc vọng tạm ngủ yên, nhưng sau đó nó vùng dậy
càng mạnh mẽ lẫy lừng hơn trước. Điều nầy giải thích tại sao nhà Thiền
thường nói “Cực tĩnh sinh động”. Lối dùng đá đè cỏ này không
phù hợp với Thiền tông. Chúng ta cũng không sợ vọng khởi, vì khi liễu
được vọng tức chơn, lập tức những đám mây vọng tưởng không còn có thể
che lấp bầu trời tự tánh, mà ngược lại còn tô điểm cho nền trời. Như
sóng và biển, cả hai cùng bản chất là nước, muốn tìm nước cứ ngay sóng
mà tìm. Sóng biển có nổi có chìm, nhưng nước không bao giờ sinh diệt.
Vọng tưởng lúc khởi lên khi lặng xuống, nhưng không thể nào rời khỏi
biển chân như. Cho nên, nếu sợ vọng là đem tâm sợ cái tâm, nghĩa là nước
mà sợ sóng, không đúng với lẽ thật.
Chúng ta bị trói buộc trong thân năm uẩn, thấy mình yếu đuối nhỏ nhoi
trước vũ trụ bao la, và cách biệt với thế giới bên ngoài; do vậy nảy
sinh vọng chấp vào bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Cũng như
một túi nước thả xuống biển, khi túi còn nguyên vẹn thì nước trong túi
còn cách biệt với nước ngoài biển cả. Nhưng khi túi bị thủng, nước bên
trong và bên ngoài hòa nhập làm một. Đi sâu hơn, ta thấy nước trong túi
và nước ngoài biển đã từng đồng thể tánh nước, không đợi đến khi túi bị
thủng. Cũng vậy, chúng ta là phàm phu, nhưng vẫn có sẵn Phật chất đồng
với chư Phật Bồ-Tát. Không phải khi ngộ mới là chân như, mà lúc còn vô
minh ta đã chân như rồi! Chỉ vì chúng ta còn u tối, chưa biết mình có tự
tánh hằng tri. Chúng sanh sống bằng thức giác, chư Phật sống bằng trí
giác; nhưng kỳ thực, thức và trí không hai, chỉ vì thức như bóng tối còn
trí như ánh sáng vậy thôi. Đây là lý do vì sao kinh Niết-bàn dạy rõ: “Chúng sanh đã là Phật”!
Hiểu sâu sắc ý nghĩa lời kinh, đời tu chúng ta rất vui vì mình có mục
đích rõ ràng và một niềm tin kiên cố. Ta cũng nên ôm niềm thao thức “Mình có trí giác như các Ngài, sao mình không nhận ra?”. Đây
là mối nghi tối cần của người tu, canh cánh trong lòng không sao quên
được. Một lúc nào đó, đủ thời tiết nhân duyên, vấn đề này đột nhiên bùng
vỡ. Hành giả giải quyết xong việc đại sự cho chính mình.
Như vậy, trong tinh thần Tánh biết vọng, ta phải ngay nơi động mà
nhận ra cái bất động, ngay nơi vọng mà khéo nhận chân thể thường hằng.
Thiền tông chủ trương tu ngay nơi động, chứ không thừa nhận trạng thái
lặng lẽ của Thiền tịch mặc hay trầm không trệ tịch. Vì Thiền là chủ
động, nên khi nhận ra thể tánh bất sinh, thì ở mọi tư thế, mọi hoàn
cảnh, hành giả đều sống được với nó. Do đó, Lục Tổ không chủ trương tọa
thiền, nhằm phá chấp cho những người thường đồng hóa Thiền và tọa.
Nói thế không phải là bài bác việc tọa thiền. Khi tâm ta còn loạn động,
dễ duyên theo trần cảnh, tọa thiền là tư thế thù thắng nhất để định
tâm. Nhưng nếu cứ một bề nghĩ rằng chỉ tọa thiền mới là tu, vô tình ta
đã xa rời tinh thần sống động tùy duyên của Thiền. Cho nên, xem thường,
bài bác việc tọa thiền là một cực đoan; quá tôn sùng, cho tọa thiền là
cứu cánh cũng là một cực đoan khác. Cả hai đều không đúng với đường lối Trung đạo của nhà Phật.
Trở lại vấn đề Liễu vọng, có thể nói rằng hành giả đến đây là đã đi được nửa đường, nghĩa là đã thấy đường về nhà nhưng chưa đến nhà. Nhà Thiền gọi là Đốn ngộ tiệm tu hay Kiến tánh khởi tu.
Người có duyên sâu dày với Phật pháp, nghe giảng hay đọc kinh lục, tự
nhiên nhận ra tánh biết thường hằng, qua một trong sáu căn. Ở đây, chúng
ta tu trên vọng là tu theo ý căn, gọi là cửa Phổ-Hiền. Các
Thiền sư ngày xưa, tùy đương cơ mà dùng nhiều thủ thuật khác nhau để chỉ
bày chân tánh qua các cửa tương ứng với sáu căn. Chúng ta sẽ khảo sát
kỹ các phương tiện khai thị này trong chương “Thuật tác động thẳng”.
Nương ý căn ngộ nhập Phật tánh cũng là pháp an tâm của Tổ Bồ-Đề
Đạt-Ma dạy Ngài Thần Quang thuở trước. Sau khi chặt tay cầu đạo, Ngài
xin Tổ dạy pháp an tâm. Đây là vấn nạn lớn của Ngài, vì lâu nay thấy tâm
mình không an, tham vấn nhiều nơi mà chưa tìm ra lối thoát. Khi nghe Tổ
bảo một câu đơn giản “Đem tâm ra ta an cho!”, thì như làn chớp
giật, Ngài chợt thấy rõ ràng sự thật: Xưa nay cái bất an mà mình cho là
tâm, chỉ là bóng dáng không thật của tiền trần. Do chạy theo cái bất
an, cho tâm bất an này là thật mình, đem cái tâm này sợ cái tâm kia, nên
có sự mâu thuẫn dằng co trong nội tâm, lớp này chồng lên lớp khác, gây
đau khổ triền miên. Bây giờ nhìn thẳng vào nó, Ngài chợt thấy nó chỉ là
vọng tưởng hư dối, do đây thầm nhận bản tánh hằng tri, nên được Tổ đổi
tên là Huệ Khả.
Sau khi kiến tánh, còn phải dày công bảo nhậm, bào mòn tập khí, gọi là “khởi tu”. Bởi vì, tuy đã giác ngộ là đồng với chư Phật, nhưng “Đa sanh tập khí thâm”, nhiều
đời tập khí đã chồng chất rất sâu rất dày. Tập khí là những thói quen
huân tập từ vô lượng kiếp, là nghiệp nhân lôi chúng ta trầm luân trong
sinh tử. Vọng tưởng cũng là tập khí, nên dù thấy rõ lý đạo nhưng vẫn còn
thất niệm, phải mất nhiều thời gian công phu tinh cần, tâm mới thành
một khối. Quốc sư Huệ Trung sau khi được tâm ấn nơi Lục Tổ, phải mất 40
năm tu hành ở cốc Đảng Tử trên núi Bạch Nhai. Thiền sư Đại An trải qua
30 năm sống cùng “Ông chủ” ở núi Qui mới thấy “con trâu trắng sờ sờ trước mắt”.
Gọi là “tu hành”, nhưng ở giai đoạn này thì các Ngài không phải khổ công tu luyện, mà là vô công dụng hạnh.
Tu mà không có pháp để tu, nên không thấy mình chứng đắc. Các Ngài chỉ
một bề, hoặc luôn tỉnh giác quan sát tâm mình để trong không chạy theo
vọng tình, ngoài không dính mắc với trần cảnh, gọi là “Giác ngộ vô niệm”; hoặc luôn sống với bản tâm chân thật thanh tịnh của chính mình, gọi là “Giác ngộ tri hữu”. Các
Ngài không khởi vọng niệm như phàm phu, cũng không trừ vọng tâm như Nhị
thừa. Làm sao được như thế?- Đây là công việc riêng của mỗi người, mà
nếu nắm được bí yếu của nó, đời tu của chúng ta mới nhẹ nhàng và có ý
nghĩa. Ta cũng sẽ quán triệt lời dạy của Lục Tổ “Đối cảnh tâm thường sanh, Bồ-đề làm gì lớn!”.
IV. MỘT SỐ NGỘ NHẬN VỀ THIỀN PHÁP TRI VỌNG
Từ khi pháp Tri vọng được áp dụng trong Thiền phái Trúc Lâm, một số
tăng ni Phật tử theo đó tu hành có kết quả khá tốt. Tuy nhiên, cũng có
một vài ý kiến chưa đồng tình. Với những người bạn đã thông cảm, chúng
ta giúp nhau tu hành để cùng tiến bước. Với những người bạn chưa thông
cảm, đó là do lỗi ở chúng ta chưa trình bày cụ thể một số vấn đề khá khó
khăn và tế nhị. Do vậy, nêu lên những khúc mắc để chúng ta cùng xem
xét, phần nào giải tỏa mối nghi, theo thiển ý là việc làm cần thiết.
1/ “Pháp Tri vọng không do Phật và chư Tổ dạy”?
Pháp Tri vọng, nếu hiểu thấu đáo, là tinh thần “Phản quan tự kỷ”. Nhìn lại mình, soi sáng thân tâm chính mình để thấy:
- Thân là duyên hợp không thật có.
- Tâm là vọng tưởng, cũng hư ảo không thật.
- Nơi thân tâm vô thường có cái chân thật thường hằng.
Tinh thần Phản quan tự kỷ là gốc rễ của đạo Phật. Dù trong các kinh
điển Phật dạy hay ngữ lục của chư Tổ có dùng nhiều tên gọi khác nhau,
nhưng tựu trung chỉ là một. Đức Phật trong 49 ngày đêm tọa thiền dưới
cội cây Tất-bát-la, Ngài chỉ luôn quán chiếu nội tâm của mình mà thành
đạo, chứ không cầu xin một thế lực nào bên ngoài, vì thế Ngài tuyên bố “Ta học đạo không có thầy!”.
Kinh Lăng-Nghiêm kể chuyện Diễn-nhã Đạt-đa chấp bóng mình trong gương
là thật, nên khi úp gương xuống, không còn thấy đầu mặt mình liền phát
điên. Chúng sanh cũng điên đảo như thế, lầm chấp thân tâm huyễn này là
mình, nên tạo nghiệp và thọ khổ. Kinh Kim-Cang dạy rõ hơn: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Tất
cả pháp có hình tướng đều giả dối không thật. Những suy tư tình cảm của
chúng ta có hình tướng không ? Nếu nghĩ về người nào, tư tưởng ta sẽ
mang hình ảnh người đó; nghĩ về vật, về cảnh cũng như vậy. Từ một hình
ảnh, tiếp nối hiện ra nhiều hình ảnh khác như cuộn phim, hiện ra rồi
biến mất, chẳng phải hư vọng là gì? Bây giờ, chúng ta muốn thấy cái chân
thật hằng hữu, phải làm sao?
Phẩm Hiện Bảo Tháp trong kinh Pháp-Hoa mô tả một cảnh tượng lung linh
huyền diệu, mới nghe tưởng như hoang đường, kỳ thật chứa đựng một ý
nghĩa sâu mầu uyên áo: Lúc Phật Thích-Ca đang giảng thuyết kinh
Pháp-Hoa, bỗng nhiên có một tháp bảy báu từ dưới đất nổi lên trụ giữa hư
không. Trong tháp có Phật Đa-Bảo lớn tiếng ngợi khen Đức Thích-Ca vì
thương chúng sinh diễn pháp chân thật. Đức Phật Đa-Bảo có lời nguyện: “Nếu
lúc tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp-Hoa mà hiện ra trước các Đức
Phật, vị Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn chúng, vị ấy phải
nhóm họp tất cả Phật của mình đang phân thân thuyết pháp ở mười phương
về lại một chỗ, sau thân ta mới hiện”. Tháp bảy báu tượng trưng
thân thất đại (đất, nước, gió, lửa, không, kiến, thức), Phật Đa-Bảo là
Pháp thân thường trụ của mỗi chúng sanh. Pháp thân có sẵn trong thân vô
thường, nếu nhận ra pháp thân thì bảy đại trở thành bảy báu. Muốn thấy
Pháp thân, phải thu nhiếp các Phật phân thân ở mười phương, tức ý thức
không còn phân tán chạy theo ngoại duyên trần cảnh.
Phần “Quán tâm trên tâm” trong kinh Niệm-Xứ, bài kinh căn bản của
Phật giáo Nguyên thủy, Phật dạy quán niệm trên 16 loại tâm, tựu trung là
Tuệ tri trên vọng tưởng. Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma lần đầu tiên dạy Tổ Huệ Khả
cũng là cách nhìn lại tâm mình để có cái thấy như thật. Các đời Tổ
truyền thừa đều y cứ vào tâm mình mà thành tựu đạo quả. Cho đến Tuệ
Trung Thượng Sĩ, một Thiền sư cư sĩ đời Trần, khi dạy Thái tử Khâm (vua Trần Nhân Tông, Sơ tổ Trúc Lâm sau này) về yếu chỉ nhà Thiền, cũng chỉ bằng một câu “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” (Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được).
Do vậy, xoay lại chính mình, nhận rõ thân ngũ uẩn là hư dối, không
chạy theo vọng tưởng; đồng thời nhận ra và hằng sống với bản tâm thanh
tịnh thường nhiên, đó là mục đích tối thượng của sự tu hành. Đó cũng là
đường lối chung của Phật giáo, dù có nhiều tên gọi khác nhau. “Pháp Tri vọng” cũng là một trong những tên gọi ấy.
2/ “Pháp Tri vọng không phải là pháp Trung đạo”?
“Tự tánh vốn không hình tướng, không đối đãi nhưng hằng tri hằng hữu,
sao còn lập bày chơn-vọng rồi dạy người theo với chẳng theo? Như thế,
đây không phải là pháp Trung đạo”. Lời nhận xét này đã chính xác chưa?
Thật ra, như đã trình bày ở phần trên, pháp Tri vọng có 2 nội dung chính, phù hợp với căn cơ của hành giả:
- Biết vọng: Người mới vào đạo, còn lầm chấp những tư tưởng
tình cảm là thật mình, dễ bị lôi dẫn và tạo nghiệp. Người ấy phải được
chỉ cho biết, đó là những vọng tưởng hư dối, không nên theo nó. “Biết vọng không theo”
là phương tiện hướng dẫn hành giả trong giai đoạn đầu, để họ tập sống
với cái Biết, từ đa niệm trở về nhất niệm rồi mới vô niệm. “Không theo” nên được hiểu là không dính mắc, không vướng bận, chứ
không phải khởi thêm ý niệm “không theo”. Thiền sinh chỉ BIẾT đó là
vọng tưởng mà không thêm niệm gì khác, chính là ý nghĩa của Tuệ tri Đức Phật đã dạy. Cho nên, “cái biết rõ từng động tác là thường hằng, là chính, còn vọng tưởng lâu lâu khởi là phụ” (Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ XX - HT Thích Thanh Từ).
- Liễu vọng: Người có căn cơ đặc biệt, khi nghe Phật dạy về
Biết vọng, họ liền trực nhận Tánh Biết sẵn có của mình. Người ấy hiểu
rõ, vọng và chơn là hai phạm trù vừa đối lập vừa song song tồn tại, do
vọng mới lập ra chơn, còn tự tánh mới thường hằng bất biến. Ở đây không
còn nhị biên phân biệt, phù hợp Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế.
3/ Những vướng mắc của thiền sinh tu theo pháp Tri vọng.
Thiền sinh nghe giảng, biết những tâm hành sinh diệt là vọng tưởng.
Nhưng khi gặp chuyện trái ý, vẫn nổi giận và bị cơn giận lôi cuốn. Như
thế là, chưa gặp chướng duyên thì thấy có tu, khi gặp chuyện thì sự tỉnh
giác không còn. Vì vậy chúng ta phải thường xuyên phản tỉnh, đừng hiểu
lầm việc tu hành và chứng ngộ là dễ dàng như đọc trong Thiền sử.
Thiền sinh tu một thời gian, tọa thiền thấy vọng khởi liền biết, không bị nó dẫn lôi. Nhưng lại nảy sinh ý niệm buông hay không theo,
mà không biết ý niệm ấy cũng là vọng. Cứ mãi dùng vọng buông vọng, nên
vọng còn hoài. Tu đúng pháp là khi có vọng liền biết, nhưng không dính
mắc trên vọng và không vướng bận cả với ý nghĩ buông.
Đôi khi vọng nổi lên lẫy lừng, Thiền sinh như bị vọng nhận chìm. Đè
bẹp hết lớp này lại nổi lên lớp khác, một lúc là nhức đầu hoa mắt. Đó là
do ta thấy vọng thật có nên đấu tranh với nó, dùng bạo lực đàn áp nó;
một thời gian không đạt kết quả, sinh tâm chán nản, nghi ngờ.
Một số Thiền sinh công phu có tiến bộ, tọa thiền thấy yên ổn, cho đó
là bản tâm thanh tịnh của mình. Họ cảm thấy mình đang ở trong trạng thái
mênh mông bát ngát, thênh thang như hư không. Đây là tình trạng bất
động và thanh tịnh, nhưng chỉ nên thầm biết chứ đừng khởi niệm “Ta đang thanh tịnh”.
Khi khởi niệm thì đã mất thanh tịnh rồi. Lại nữa, khi ta thấy mình
thanh tịnh thì sự thanh tịnh ấy đã là đối tượng nhận thức, tức ở ngoài
mình, không phải bản tâm.
Có Thiền sinh cho rằng: “Tâm thể sáng suốt hằng hữu vốn không
vọng không chơn. Ta đã nhận ra mình có tâm thể sáng suốt ấy, chỉ cần
hằng ngày sống với nó là đủ”. Họ không biết rằng tâm thể tự nó rỗng
rang mà hằng giác, nếu có chỗ cho mình thấy “không vọng không chơn”, có
chỗ cho mình “sống với”, thì nó đã trở thành đối tượng bên ngoài. Đây
là bệnh thường gặp của một số người tu lâu hoặc nghiên cứu nhiều kinh
sách, thấy chư Tổ dạy như thế cũng bắt chước nói theo, mà không biết các
Ngài vì người mới sử dụng ngôn từ tạm diễn bày cái không thể
diễn bày được. Từ đó, họ ngộ nhận mình đã chứng đắc, nói năng ngông
cuồng tự phụ, tạo nhân đọa vào đường ác, thật rất đáng thương!
Có người tinh tấn công phu, một thời gian có sự nhạy bén, nên khi
vọng mới dấy lên liền biết. Nhưng họ lại cho đó là Tánh biết. Đây là
điều lầm lẫn tai hại. Biết vọng nhiều, vọng thưa hay không vọng, nếu cho
đó là “tánh biết”, thì “tánh biết” này lại trở thành đối tượng nhận
thức. Tánh biết là tự biết chứ không phải được nhận là, cũng như khi ta
thấy cảnh vật bên ngoài tức ta tự biết mắt mình sáng, chứ con mắt không
thể thấy lại chính nó. Năng tri mà được nhận hiểu thì đã biến thành sở
tri, cứ như vậy tiếp diễn mãi hết lớp này đến lớp khác. Đây là điều rất
tế nhị mà nếu không đi sâu vào công phu thì khó thấu triệt, cho nên phải
khéo thận trọng, đừng vội tự mãn cho mình tu hay tu giỏi mà tổn phước.
Có Thiền sinh nghe dạy “Tâm bình thường là Đạo” và “Đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền”, chủ
trương hằng ngày khi đối duyên xúc cảnh, ta cứ sống với “tâm bình
thường” là đủ. Cái hiểu này bị hai điều lỗi: Một là, khi căn tiếp xúc
với trần cảnh, ta thấy không dính mắc phân biệt; không ngờ có những vọng
niệm rất vi tế mà ta không nhận ra, cứ ngỡ tâm mình đã “bình thường”
tức đã vô tâm rồi. Hai là, nếu ta thấy mình đang sống với “tâm bình
thường”, thì tâm ấy không còn bình thường nữa, vì nó đã là đối tượng.
Nhiều Thiền sinh chăn trâu miên mật, luôn canh giữ không cho niệm
khởi, như kiểu Ngài Thần Tú lau bụi trên gương. Lối tu này cũng bị hai
điều lỗi: Thứ nhất, vọng không thật thì làm sao lau? Thứ hai, do mang
tâm trạng luôn luôn canh chừng vọng nên đâm ra sợ vọng và ưa thích cảnh
giới yên lặng trống vắng. Trường hợp này có thể rơi vào trầm không trệ
tịch.
Có Thiền sinh nghe ví dụ tâm như nước, vọng tưởng như đất bùn, nên
nghĩ bản tâm vốn trong sạch nhưng bị vọng tưởng làm nhiễm nhơ. Muốn tâm
trở lại thanh tịnh, phải gạn lọc vọng tưởng, như nước đục phải qua gạn
lọc mới thành trong. Lối hiểu này là chấp tâm và vọng đều có hình tướng.
Thật ra, tâm tự thanh tịnh, vọng không thể làm tâm bị nhiễm, nên không
cần phương pháp nào để tâm trong sạch cả. Chẳng qua vì chúng ta quên
tánh giác chạy theo trần cảnh, nên muôn đời muôn kiếp mãi làm chúng
sinh(bối giác hiệp trần); còn các vị đã giác ngộ, luôn bối trần hiệp
giác nên là Bồ tát, là Phật.
Một số Thiền sinh, do túc duyên nhiều đời nên một lúc nào, trực nhận
ra tánh giác. Nhưng đáng tiếc, họ cho đó là xong việc, vội vàng thỏng
tay vào chợ, mặc tình nói năng hành động buông lung. Nhà Thiền luôn thận
trọng cảnh giác đối với những tâm niệm vi tế, vì tập khí sâu dày từ
nhiều đời, không thể bào mòn nhanh chóng. Vị ấy phải gia công bảo nhậm
để tự tánh luôn hiển bày, thường xuyên phản tỉnh để không bị vọng tưởng
dẫn lôi. Đây là dụng công mà không tác ý nên là công phu vô hành, nhưng
dù vô hành mà cũng phải công phu. Điều này nên khéo thầm lãnh hội, chúng
ta nên theo đó mà dè dặt tu hành.
Có Thiền sinh hiểu pháp tu, thấy các Thiền sư ở ẩn trong núi trưỡng
dưỡng Thánh thai, nên cũng tìm nơi rừng núi vắng vẻ tránh duyên. Cái
chấp này bị hai điều lỗi: Một là, nếu không có nơi vắng vẻ thanh tịnh
theo ý muốn, cứ mơ ước mãi nơi chốn ấy như một vùng đất hứa, thì sự mơ
ước ấy trở thành phiền não chướng ngại. Hai là, nếu tìm được nơi vừa ý,
một thời gian thấy yên ổn, ngỡ mình tu có kết quả tốt; không ngờ khi trở
lại chỗ ồn náo thì sinh loạn động. Từ đó có tâm trạng chán ghét ồn náo,
ưa thích vắng lặng. Đây cũng là bệnh, nên Sơ Tổ Trúc Lâm bảo “Ở đời vui đạo khéo tùy duyên”. Ở trong cảnh đời mà vẫn vui với đạo, ấy mới là tu chân chính.
Nhiều người tu hành lâu năm, nhưng nghe ai có thần thông cũng đem
lòng ngưỡng mộ. Lúc gặp khó khăn trong cuộc sống, lại đến xin bùa chú về
giải hạn. Gặp cảnh lạ trong lúc tọa thiền, lại khởi tâm dính mắc. Tất
cả đều không làm đúng lời Phật dạy. Đức Phật thường bảo: “Ta không để ý đến thần thông mà chỉ chú trọng đạo thông”. Ngài
Mục Kiền Liên nổi danh thần thông đệ nhất trong mười vị đệ tử lớn của
Phật, vẫn không thể tự cứu mình lúc đến giờ phải đền trả nghiệp cũ. Mặt
khác, trong phần Ngũ ấm ma của kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã giảng giải
tường tận những cảnh giới kỳ lạ mà hành giả có thể gặp khi tọa Thiền.
Nếu khởi tâm mừng hay sợ là bệnh, một thời gian bị lôi kéo dẫn dắt,
người ấy có thể trở nên điên cuồng.
Tất cả những điều chúng ta vừa khảo sát qua, dù sâu hay cạn, đều chỉ
là lý thuyết. Muốn thâm nhập thực chất của vấn đề, mỗi người chúng ta
phải tự thân áp dụng vào công phu. Tùy trình độ căn cơ và phước duyên
của từng người mà có kết quả sai khác, nhanh chậm; nhưng nếu chúng ta có
ý chí kiên định, có lòng kiên nhẫn trường kỳ, và có niềm tin vững chắc
về Phật nhân của chính mình, về khả năng của mình và về sự đúng đắn của
con đường mình đang đi, thì có ngày chúng ta sẽ thành tựu Phật quả.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét